Ghi chú của người dịch
(Tiểu Tăng Nguyệt Quang Bảo):
Đây là một câu chuyện kể, có lẽ là có thật, xảy ra ở
Bangladesh, một quốc gia theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, còn gọi là
Thanh Văn Thừa, hay Nam Tông, hoặc Tiểu Thừa. Mọi tình tiết và giáo huấn trong
câu chuyện này đều tương ứng với Giáo lý của truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy,
theo đó quả vị đạt được cao nhất trong truyền thống này là A-la-hán, là sự giải
thoát hoàn toàn được bản thân.
Theo truyền thống Kim Cương Thừa thì tiến trình chết diễn
ra theo như mô tả trong cuốn sách Tử Thư Tây Tạng – The Tibean Book of the
Dead. Qua đó, những người tu tập theo Kim Cương Thừa là học và tu tập để có thể
chủ động được cái chết và cả trong tiến trình cái chết xảy ra với chính bản
thân mình.
=========================================
Lời nói đầu
Kiếp
sống sau cái chết (bên kia cửa tử) và sự sống siêu phàm đến nay đã đặt ra những
câu hỏi gây đau đầu nhất cho các nhà triết học, các nhà tâm lý học, và các nhà
nghiên cứu về bản tánh của con người (nhân bản). Nhiều ý kiến khác nhau bàn thảo
về vấn đề này đã được nêu ra, nhưng có một điều không thể tranh cãi là tất cả
chúng ta đều phải chết. Và ở ngay thời khắc chuẩn bị bước vào cõi chết người ta
thường nhận thấy người sắp chết có những hành xử trong một trạng thái mơ hồ về
mặt tinh thần do sự mê hoặc của những tinh linh siêu phàm nào đó. Về mặt tâm lý
thì những giai đoạn tâm thần này có thể được gọi là ảo ảnh, ảo giác, hoặc ảo tưởng.
Nhưng, đối với một người quan sát nghiêm chỉnh thì đôi khi nó có thể xảy ra thường
xuyên đến nỗi toàn thể những hiện tượng đó trở thành một thực tế thu hút sự chú
ý và kỳ lạ hơn chuyện giả tưởng rất nhiều. Một sự trải nghiệm đầy xúc động như
thế đã xảy đến với tôi nhiều năm trước đây, lúc đó tôi, một nhà sư, đứng cạnh
giường một người đàn ông đang sắp chết. Sự trải nghiệm như thế đã tạo trong tâm
tôi một ấn tượng quá mạnh đến nỗi sau đó tôi đã bắt đầu thực hiện một công
trình nghiên cứu đầy gian khó về khái niệm loài trời (chư thiên) trong Tam Tạng
Kinh Pa-li.
Trước
những sự thỉnh cầu khẩn thiết từ nhiều phương khác nhau đưa đến, tôi không thể
nào cưỡng lại được sự cuốn hút vào việc phải ghi lại sự trải nghiệm của tôi
ngày xưa, từ đó giương lên một ngọn đuốc cho một số lớn những người tò mò mà
tôi tin là chắc chắn sẽ cảm thấy bản tường thuật này đầy thú vị và sáng tỏ.
Trong cuộc mạo hiểm ngắn ngủi này, tôi bày tỏ lòng cám ơn về sự khích lệ và hợp
tác từ thiền sư Anagarika Munindra, Tiến sĩ Arabinda Barua, Thạc sĩ, Tiến sĩ
(London), Luật sư, Giáo sư Sunil Barua, Cử nhân, Thạc sĩ, Cử nhân Luật, Cư nhân
Giáo dục, và Smt. Krishna Barua, Cử nhân.
Thượng
tọa Rastrapal Mahathera
Năm Viễn Ảnh Của Một Người Đàn Ông
Đang Sắp Vào Cõi Chết
Sự
việc tình cờ sắp được diễn tả ra đây xảy ra vào năm 1957, sau khi tôi đã nhận lễ
thọ phong lên cấp, làm một tu sĩ Phật giáo. Lòng tôi tràn đầy nhiệt huyết và một
sự khao khát lớn lao được học tất cả những gì có thể được học về Đạo Phật. Trong
suốt khóa học của tôi, câu chuyện về cư sĩ Dhammika, như được thuật lại trong
Luận Giải Kinh Pháp Cú, đã thu hút sự chú ý của tôi.
Cư
sĩ Dhammika là một đệ tử thuần thành của đức Phật. Ông ta cùng với những thành
viên trong gia đình đã quen tuân thủ những giáo nghĩa của Phật pháp một cách rất
là chi li. Một lần ông ngã bệnh và lúc cảm thấy
mình sắp chết, ông ta gởi lời thỉnh cầu đến đức Phật để cho một số vị tăng đến
tụng Kinh bên giường ông ta. Do đó chư tăng được phái đến và bắt đầu tụng Kinh
Tứ Niệm Xứ.
Khi
chư tăng tụng được nửa bài Kinh thì bất chợt ông ta hét lên: “Dừng lại! Dừng lại!”
Nghe vậy, chư tăng lấy làm ngạc nhiên. Nghĩ rằng vị cư sĩ đã yêu cầu họ dừng tụng
Kinh cho nên họ không tụng nữa và trở về với đức Phật.
Đức
Phật hỏi chư tăng sao lại về sớm thế. Chư tăng thưa rằng vị cư sĩ đó đã yêu cầu
họ thôi, không tụng Kinh nữa nên họ phải về sớm, trước khi tụng xong thời Kinh.
Đức Phật bảo chư tăng rằng ắt hẳn họ đã hiểu lầm điều vị cư sĩ muốn nói. Đức Phật
giải thích cái mục đích thực sự của vị cư sĩ thì trái ngược với những gì các vị
tăng đã tưởng. Vị cư sĩ đó đã yêu cầu những vị trời đã đi xe ngựa đến để đưa
ông ta về cõi trời hãy dừng những ý định đưa ông ta đi. Ông ta không yêu cầu
chư tăng dừng tụng Kinh.
Tôi
cũng đã từng đọc qua những câu chuyện trong Tam Tạng Kinh và những Luận Giải về
sự xuất hiện của các vị trời hoặc những hồn ma quái ác vào giờ phút lâm chung của
một người, tùy theo nghiệp hay hành động trong kiếp sống trần tục của người đó.
Những câu chuyện này tạo ra sự rắc rối khó hiểu cho tôi bởi vì nó không có phù
hợp với sự suy luận bằng lý trí của tôi. Tôi đến gặp vị Thượng tọa Jnanishwar
Mahathera, một học giả uyên thâm về Phật giáo, là nhà sư thường trú của một tu
viện rất nổi tiếng tại Unainpura ở Bangladesh. Tôi nêu thắc mắc của tôi với
ngài. Ngài đọc một bài kệ như sau:
"Niraye
aggikkhandho ca petalokañca andhakam,
tiracchanayoniñca mamsakkhandhañca manusam,
vimanam devalokamhi nimittam pañca dissare."
tiracchanayoniñca mamsakkhandhañca manusam,
vimanam devalokamhi nimittam pañca dissare."
“Những
ai sẽ đi vào địa ngục thì sẽ nhìn thấy ảnh tượng của một khối lửa; những ai sẽ
đi vào thế giới của loài ma đói (ngạ quỷ) thì nhìn thấy đêm tối và những cảnh u
ám vây khắp xung quanh; những ai sẽ sinh làm những thú vật thấp bé thì nhìn thấy
ảnh tượng của núi rừng, thú vật và những sinh vật khác, những ai sẽ sinh làm
người thì nhìn thấy ảnh tượng của những người thân đã chết; và những ai sẽ sinh
vào cõi trời thì có ảnh tượng của những cung điện ở cõi trời. Đây là năm viễn ảnh
thường xuất hiện trước một người đang bước vào cõi chết.”*
______________________
* Ghi chú của biên tập viên: Bài kệ tiếng
Pali và bản dịch Anh ngữ được cung cấp ở đây không có hoàn toàn ăn khớp với
nhau, nhưng tôi không thể tìm được bản gốc của bài kệ để xem có mất một hàng
nào hay không.
Thượng
tọa Mahathera giảng giải cho tôi rất là dài về bài kệ này, nhưng chỉ thuyết phục
được tôi chừng một nửa. Tôi cần một sự trải nghiệm cá nhân về nội dung của bài
kệ để được tin tưởng hoàn toàn.
Chẳng
bao lâu sau đó thì tôi có được sự trải nghiệm mà tôi mong đợi. Lúc đó tôi đang ở
tại một ngôi chùa trong một ngôi làng tên là Tekota ở Chittagong (Bangladesh).
Một hôm, sau khi đi học ở college về, cách ngôi chùa của tôi chừng năm dặm, tôi
hết sức mệt mỏi và muốn lên giường nghỉ một chút. Nhưng rồi ngay lúc đó một người
đàn ông từ một ngôi làng kế bên đến chùa và thỉnh cầu tôi theo ông ta đến bên
giường của người anh/em rể của ông ta, ông Abinash Chandra Chowdhury, đang lâm
bệnh trầm trọng và hầu như đang ở ngưỡng cửa của sự chết. Người đàn ông đang sắp
chết đó, 56 tuổi, là một Phật tử thuần thành và rất nổi tiếng về lòng mộ đạo.
Tôi ngồi dậy và khởi sự đi đến nhà ông ta.
Khi
tôi vừa đến được nhà ông ta thì tôi thấy ở đó đã chật ních những người thân và
bạn bè của ông. Họ nhường đường cho tôi và khi đến gần người đang sắp chết thì
tôi thấy ông ta đang nằm trên một tấm nệm trải trên sàn nhà. Lúc đó khoảng chừng
8:30 tối. Người ta mang cho tôi một cái ghế để ngồi. Trước khi tôi bắt đầu tụng
những bài Kinh đặc biệt dành cho hoàn cảnh đó, một sự yên lặng do mọi người nín
thinh đột ngột lan tỏa khắp nơi đó. Những người chung quanh đều trong tình trạng
hồi hộp chờ đợi. Trong nhiều dịp trước đó tôi đã nói với dân làng trong những lần
tôi thuyết giảng rằng tôi rất muốn xác nhận những gì đã được thuật lại trong
bài kệ về sự xuất hiện của năm viễn ảnh vào thời khắc từ trần của một người. Giờ
đây thực sự chính là cái thời khắc như thế đã đến.
Tôi
bắt đầu tụng và khi đã tụng xong được vài bài Kinh thì tôi nghe người đang sắp
chết chốc chốc thốt lên một cách yếu ớt những từ “Phật – Pháp – Tăng, Vô thường
– Khổ - Vô ngã” và “Từ - Bi – Hỷ - Xả” đầy thành kính. Kế đến tôi quan sát thấy
rằng tình trạng của ông ta đang trở nên tồi tệ hơn rất nhanh. Nhằm để có được một
cái nhìn gần sát với ông ta để kiểm nghiệm tính xác thực của bài kệ về năm viễn
ảnh, tôi yêu cầu người ta trải một chỗ ngồi cho tôi trên sàn nhà, bên cạnh người
đàn ông đang sắp chết. Yêu cầu này đã được đáp ứng.
Người
đàn ông đang sắp chết đang nằm nghiêng bên trái, mặt hướng về tôi. Tôi đặt bàn
tay phải của tôi lên cánh tay phải ông ta và hỏi ông ta cảm thấy thế nào. Sự
đáp lại là đã đến lúc để ông ta lìa khỏi cõi đời này và ông ta không hề hy vọng
sẽ sống thêm được chút nào nữa cả. Tôi cố gắng an ủi ông ta bằng cách nói rằng
ông ta lúc đó chỉ mới 56 tuổi và không thể có chuyện chết quá sớm trong đời như
vậy. Đời ông đã sống vì đạo đức, một nguồn cảm hứng cho những người cùng làng với
ông ta như thế đâu thể nào bị cắt ngắn quá sớm như thế được.
Rồi
tôi hỏi ông ta có muốn thọ Năm Giới (Ngũ Giới) và nghe vài bài Kinh hay không.
Ông ta trả lời muốn thọ, và sau khi truyền Năm Giới tôi tụng một vài bài Kinh,
ông ta lắng nghe với lòng sùng kính vô cùng. Sau khi tạm ngừng tôi cảm thấy tò
mò muốn biết ông ta đã có bất kỳ một viễn ảnh nào xuất hiện trước mắt hay chưa.
Mắt ông ta cứ nhắm suốt thời gian tôi ngồi bên giường. Chốc chốc tôi lại tiếp tục
lặp lại câu hỏi của tôi. Ông ta bảo tôi rằng ông không hề có một viễn ảnh nào cả.
Vào
khoảng 11:30 tối khuya, ông ta lẩm bẩm điều gì đó. Tất cả chúng tôi bên cạnh
giường ông ta có thể xác định rằng ông ta đang kể về viễn ảnh của Cây Bồ Đề tại
Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Phật đã đạt Giác Ngộ Trọn Vẹn (Viên Mãn). Cái viễn ảnh
về Cây Bồ Đề có lẽ là một sự hồi tưởng về chuyến viếng thăm Bồ Đề Đạo Tràng của
ông ta. Rồi tôi hỏi ông ta có viễn ảnh về bất kỳ một vật nào khác ở đó không.
Ông ta la lên rằng cha mẹ quá cố của ông ta đang ở đó và họ đang dâng hoa đến
Tòa Kim Cương dưới Cây Bồ Đề. Ông ta lặp lại điều này hai lần. Rồi tôi bảo ông
ta hỏi cha mẹ ông ta xem họ có muốn thọ Năm Giới không. Ông ta nói họ muốn thọ
và đang chắp tay đợi nhận giới.
Sau
khi truyền Năm Giới, tôi lại hỏi ông ta xem cha mẹ ông ta có muốn nghe vài bài
Kinh không. Khi họ đáp lại là muốn, tôi tụng bài Từ Bi Kinh. Tôi cảm thấy xúc động
bởi sự diễn biến của những sự kiện đó, nó trùng hợp với những lời trong bài kệ
về năm viễn ảnh. Những người khác hiện diện ở đó cũng có vẻ xúc động. Họ đang
nhìn xem cảnh tượng với một tâm trạng đầy phấn khích vì đây là một điều bất ngờ
đối với họ.
Rồi
thì trên căn bản của bài kệ đã rõ ràng với tôi rằng cái viễn ảnh ông ta có về
cha mẹ của ông ta có ngụ ý rằng ông ta sắp sinh vào thế giới của loài người, và
rằng còn sinh vào một cõi giới cao hơn trong cõi người vì ông ta có viễn ảnh của
Cây Bồ Đề cùng với cha mẹ của ông ta. Nhưng tôi cảm thấy rằng một người với
lòng sùng kính và mộ đạo của ông ta đáng được tái sinh về một cõi cao hơn nữa
và tôi tiếp tục hỏi ông ta xem ông ta đang có thêm viễn ảnh nào khác nữa không.
Một
chặp sau tôi phát hiện một sự thay đổi đang đến với ông ta. Ông ta có vẻ như đã
chuyển sang vấn đề vật chất và yêu cầu người thân trả hết nợ cho ông ta. Ngay
lúc đó tôi hỏi ông ta có đang thấy bất kỳ một viễn ảnh nào khác trước mắt hay
không. Ông ta kêu lên một cách yếu ớt rằng ông nhìn thấy tóc dài. Lúc đó là
1:40 sáng. Tôi hỏi: “Ông có nhìn thấy con mắt không?” Ông ta trả lời: “Tôi
không thấy, vì mái tóc rậm phủ từ đầu đến chân.”
Tôi
không thể xác định sự hiện hình ma quỷ này có nghĩa gì, nhưng tôi đoán rằng nếu
cái chết xảy ra cho ông ta vào thời khắc đó thì ắt hẳn ông ta đã tái sinh vào một
cõi thấp nào đó. Rồi về sau, một hôm khi tôi muốn nhờ Thượng tọa Jnanishwar
Mahathera và một nhà sư uyên bác khác nữa, Thượng tọa Silakara Mahathera, làm sáng
tỏ cái viễn ảnh này, cả hai vị đều cùng một ý kiến cho rằng ma quỷ hiện hình có
nghĩa là người đàn ông đang hấp hối có thể đã vào thế giới của loài ma đói (ngạ
quỷ) nếu ông ta chết vào thời điểm đó. Tại giai đoạn đó, nhằm để xua đuổi sự hiện
hình của ma quỷ đó, tôi bắt đầu tụng Kinh. Điều này đã mang lại kết quả như
mong muốn, vì khi tôi hỏi ông ta là con ma vẫn còn đó không thì người đàn ông
đang sắp chết kêu lên rằng nó đã biến mất rồi.
Có
vẻ như ông ta vẫn còn khư khư bám víu vào kiếp sống ở trần gian này của ông ta
vì kế đến là ông ta đã yêu cầu người thân lấy chiếc nệm vừa mới làm để dưới giường
ông ta ra, ông ta muốn giữ chiếc nệm đó cho người con trai duy nhất của ông,
ông Sugata Bikash Chowdhury, lúc đó đang ở một nơi xa xăm, Durgapur bên Ấn độ.
Ông ta không muốn người ta đốt chiếc nệm đó cùng với cái xác chết của ông như
là một tập tục của những người Phật tử Bangladesh ở Chittagon. Sau đó ông ta lại
rơi vào một tình trạng hết sức suy kiệt.
Rồi
tôi hỏi lúc đó ông ta thấy những gì. Ông ta trả lời rằng đang thấy hai con chim
bồ câu đen. Ngay tức thì tôi nhận ra rằng đó là viễn ảnh của thế giới loài vật,
nơi mà ông ta sắp sửa bị tái sinh vào. Lúc đó là 2 giờ sáng. Tôi không muốn ông
ta ra đi để bị tái sinh vào cõi thú vật và tôi lại bắt đầu tụng Kinh. Khi tôi tụng
xong một vài thời Kinh thì tôi hỏi lại ông ta có thấy gì nữa không. Lần này ông
ta cho biết là không có viễn ảnh gì trước mắt ông ta cả.
Tôi
tụng Kinh trở lại và một chặp sau tôi hỏi lại ông ta có thấy gì trước mắt
không. Tôi hỏi đi hỏi lại nhiều lần và
cuối cùng thì ông ta thốt lên rằng ông đã thấy một cỗ xe ngựa cõi trời đang tiến
đến. Dù biết là không có thứ gì có thể cản trở được đường đi của cỗ xe ngựa cõi
trời, nhưng vì vẫn tôn kính những vị trời đó nên tôi yêu cầu những người thân của
người đang sắp chết tránh đường cho cỗ xe đi tới. Rồi tôi hỏi cỗ xe cách ông ta
bao xa. Ông ta dùng bàn tay ra hiệu ám chỉ rằng nó đang ở bên giường.
Khi
hỏi có thấy ai trong cỗ xe ngựa không, ông ta nói rằng có những vị thiên nam và
thiên nữ trong cỗ xe. Rồi tôi bảo ông ta hỏi xem những vị trời đó có muốn thọ
Năm Giới không. Tôi đã biết qua Kinh điển rằng những vị trời (chư thiên) vâng lời
và kính trọng không những tu sĩ mà còn cả những cư sĩ đầy lòng sùng kính.
Qua
việc ông ta chuyển lời đồng ý của chư thiên, tôi làm lễ truyền Năm Giới và sau
đó tôi hỏi lại xem họ có thích nghe Kinh Từ Bi không. Với sự bằng lòng của họ,
tôi tụng bài Kinh đó. Tôi lại hỏi xem họ có thích nghe Kinh Hạnh Phúc không và
tôi tụng bài Kinh đó khi họ bày tỏ sự đồng tình.
Rồi
tôi lại hỏi xem họ có thích nghe bài Kinh Linh Bảo không, lần này thì người đàn
ông đang sắp chết vẫy bàn tay báo hiệu rằng chư thiên không có ý muốn nghe bài
Kinh này. Ngay sau đó ông ta bảo tôi rằng chư thiên muốn tôi trở về chùa.
Rồi
tôi nhận ra rằng chư thiên đang trở nên nôn nóng muốn đưa ông ta về cõi trời,
nhưng tôi muốn điều đình và kéo dài đời sống của ông ta trên trần thế này. Tôi
bảo người đàn ông đang sắp chết nói với chư thiên hãy đi về vì lúc đó chưa phải
là lúc ông ta phải chết. Vì ông ta chỉ mới 56 tuổi, tôi chắc chắn việc chư
thiên đã đến để đưa ông ta về cõi trời là một sự nhầm lẫn. Chính tôi và tất cả
những người khác có mặt ở đó đều sẵn sàng chuyển phước báu của mình cho số chư
thiên đó để đổi lấy việc chúng tôi xin họ tha mạng sống cho ông ta.
Tôi
lại hỏi người đàn ông đang hấp hối xem có còn một viễn ảnh nào khác đang hiện
diện nữa không. Ông ta đáp rằng cha mẹ ông ta vẫn còn đang quanh quẩn dưới Cây
Bồ Đề. Điều này chẳng có gì khác ngoài một ý nghĩa duy nhất, nghĩa là sự cuốn
hút từ thế giới loài người vẫn còn đang tác động rất mãnh liệt đến ông ta và
ông ta sẽ được tái sinh làm một con người. Tôi lại gợi ý rằng tất cả chúng tôi
cúng dường những phước báu đã tích tập được của mình cho cha mẹ đã quá vãng của
ông ta, để mong là họ nên ra đi, giống hệt như chư thiên đã làm vậy.
Từ
biểu hiện của người đàn ông đang hấp hối đưa ra thì có vẻ như rằng cha của ông
ta bằng lòng với sự yêu cầu của tôi nhưng người mẹ thì không. Tôi biểu lộ sự phẫn
nộ đối với sự không khoan nhượng này ở phía người mẹ, và thông qua người đàn
ông đang sắp chết nói cho cha mẹ ông ta biết rằng khi chư thiên đã đồng ý làm
theo yêu cầu của tôi mà họ từ chối thì đó là một điều hoàn toàn không hợp lẽ.
Tôi nói rằng lối hành xử này có thể sẽ gây tai hại cho họ. Tôi đã phải lặp đi lặp
lại sự quở trách này nhiều lần, và rốt cuộc sự quở trách đã mang lại kết quả
mong muốn. Hai ông bà đó, tôi có thể hiểu được, là cuối cùng cũng đã ra đi.
Giờ
đây tất cả những viễn ảnh xuất hiện trước mắt người đàn ông đang sắp chết đều
đã biến mất hết, một sự thay đổi có thể trông thấy được đã xảy ra khắp trên người
ông ta. Ông ta hít một hơi thở dài và thể hiện những dấu hiệu của sự sống trở lại.
Khi một trong những người thân của ông ta đến gần với một ngọn đèn trong tay để
nhìn ông ta cho kỹ, ông ta la lên: “Đừng có lo lắng nữa, tôi sẽ không chết
đâu.” Khi chúng tôi nhìn thấy người đàn ông đang sắp chết được sống trở lại, một
làn sóng vui mừng và nhẹ nhõm lan tỏa khắp cả chúng tôi.
Tất
cả chúng tôi đều cảm thấy choáng ngợp bởi cảnh tượng không thể ngờ được này, cảnh
tượng đã phô bày trong một cung cách biến hóa khôn lường. Lúc đó là 5 giờ sáng.
Mọi người có mặt ở đó đều đã trải qua một đêm không ngủ, nhưng kỳ lạ là chẳng một
ai cho thấy bất kỳ một dấu hiệu mệt mỏi nào, đây là sự kiện thật có sức thu hút
và cảm động. Rồi tôi rời khỏi nơi đó, về đến chùa, tắm rửa, ăn sáng, và đi chợp
mắt một chút.
Chừng
10 giờ sáng, tôi nghe có tiếng động bên ngoài phòng. Lúc đi ra thì tôi nhìn thấy
cũng người đàn ông đã từng đến tìm tôi vào buổi tối hôm trước. Tôi hỏi ông ta
sao lại trở lại đây. Ông ta bảo rằng ông ta đến tìm tôi lại là vì ông Chowdhury
sau khi qua được chừng năm tiếng đồng hồ khỏe mạnh thì đã thể hiện những dấu hiệu
kiệt lực hoàn toàn và cuộc đời ông ta có vẻ như đã đến hồi kết thúc.
Tôi
cấp tốc theo người đàn ông đó quay trở lại nhà ông Chowdhury. Tôi thấy những
đoàn dài dân làng đang đi cùng hướng với tôi, và khi tôi đến nhà thì ở đó đã chật
ních những đám đông đã tụ họp vì nghe về những sự kiện không ngờ được của đêm
hôm qua. Tất cả đều nhường đường để tôi đến được bên cạnh người đàn ông đang sắp
chết.
Tôi
ngồi bên cạnh giường của ông ta và hỏi xem ông ta đang cảm thấy thế nào. Ông ta
đáp lại một cách yếu ớt rằng ông ta không thể sống thêm được nữa. Tôi đưa những
lời khích lệ ông ta và hối thúc ông ta nhớ lại những thiện hạnh (hành động thiện)
mà ông ta đã làm trong đời. Thỉnh thoảng tôi hỏi ông ta xem có thấy viễn ảnh
nào trước mặt không, nhưng lần nào câu trả lời cũng đều là “Không.”
Rồi
đến 11:20 trưa, và một trong số người thân của ông ta, ông Mahendra Chowdhury,
là một ông cụ 86 tuổi, nhận biết rằng thời gian cho bữa ăn cuối cùng của tôi
trong ngày sắp trôi qua nên mời tôi dùng bữa. Tôi bảo ông ta với chút giọng cứng
rắn rằng tôi không thể nào rời khỏi người đàn ông đang hấp hối vào lúc đó, dù
là đi ăn.
Sự
việc này tạo ra một tình huống căng thẳng, vì tất cả đám đông đã tụ hội ở đó đều
đang háo hức đợi xem diễn tiến của những sự kiện có thể xảy ra như thế nào. Tôi
lại hỏi người đàn ông đang sắp chết xem ông ta có nhìn thấy một viễn ảnh nào
không. Lần này thì ông ta nói: “Có, họ đã đến lại, chư thiên trong cỗ xe ngựa.”
Sự
xuất hiện của chư thiên vào giai đoạn đó, khi tôi quả quyết ở lại bên giường
người đàn ông đang sắp chết sau khi từ chối bữa ăn cuối cùng của tôi trong
ngày, đã làm cho tôi phải suy nghĩ rất lâu. Về sau, khi tôi hỏi Thượng tọa
Jnanishwar Mahathera và Thượng tọa Silalankar Mahathera để hiểu rõ sự việc này,
cả hai vị đều bảo tôi rằng chư thiên đó ắt hẳn đã đợi cho tôi đi ăn trưa; rồi
trong lúc tôi vắng mặt, họ sẽ đưa người đàn ông đang sắp chết đó về cõi trời.
Nhưng khi họ biết được rằng tôi nhứt quyết ở lại bên giường người đàn ông đang
sắp chết, họ rốt cuộc đã đến để đưa ông ta đi.
Rồi
người đàn ông đang sắp chết nói với tôi rằng chư thiên đang khẩn cầu tôi trở về
chùa và họ khăng khăng ở điều này. Tôi tự hỏi vì sao vậy, tôi nhận ra rằng sự
do dự của chư thiên chưa đưa người đàn ông đang sắp chết đi trước sự hiện diện
của tôi phải là do sự chịu ơn của họ đối với tôi qua việc truyền Năm Giới cho họ
và tụng Kinh cho họ nghe. Sau này khi tôi kể lại sự kiện này, tôi được Thượng tọa
Mahatheras xác định niềm tin này của tôi.
Vì
tôi cảm thấy rằng cái chết của ông ta là không thể tránh khỏi, tôi bảo ông ta
nói với chư thiên: “Chư vị có thể đưa ông ta đi trước mặt tôi. Tôi không có phản
đối việc làm như vậy của chư vị. Tôi rất là vui vẻ cho phép ông ta rời khỏi
chúng tôi.” Tôi làm như vậy vì ông ta sắp về cõi giới của chư thiên đó, cõi giới
mà ông ta xứng đáng được hưởng nhờ công đức của những phước báu và đó cũng là
điều tôi thành thật ước nguyện cho ông ta. Kế đến tôi yêu cầu người vợ và những
người bà con gần của ông ta nói với ông ta một lời từ biệt vui vẻ, tất cả những
người này đều làm theo.
Tình
huống bây giờ đã đâu vào đó cho chuyến ra đi cuối cùng của ông ta về thế giới kế
tiếp. Ông ta từ biệt lần cuối cùng với tất cả chúng tôi bằng những lời: “Bây giờ
tôi đi đây.” Đó là những lời cuối cùng người đàn ông đang hấp hối thốt ra. Gương
mặt ông ta rạng rỡ và tràn đầy sự phúc lạc chân thật.
Sau
đó, đầu này thì tôi giữ cái đầu và hai vai của ông ta, và yêu cầu một người đàn
ông khác nắm giữ hai cái chân. Chúng tôi kéo thẳng để ông ta nằm ngửa ra và tôi
nhỏ vài giọt nước ngọt vào miệng ông ta. Rồi tôi đặt bàn tay tôi lên ngực ông
ta. Tôi cảm thấy nó thật là ấm. Người đàn ông đang chết, theo tôi đoán, vẫn còn
nhận thức được và có vẻ như đang tự nói với chính ông ta những câu Kinh cầu
nguyện mà ông ta đã thường trì tụng suốt cả đời.
Rồi
tiếp theo, ông ta ráng hết sức nhấc bàn tay phải lên và chuyển động theo cách
có ý rằng ông ta đang tìm kiếm một cái gì đó. Tôi không thể xác định được ông
ta muốn gì. Có người trong đám đông gợi ý rằng ông ta có thể đang cố gắng sờ
bàn chân tôi, điều mà đêm hôm trước ông ta thỉnh thoảng cũng đã làm.
Rồi
thì tôi đưa bàn chân phải của tôi đến gần hơn để ông ta có thể duỗi bàn tay ra
sờ. Cái sờ đó có vẻ như mang lại cho ông ta một sự mãn nguyện tuyệt vời, điều
này có thể được nhìn thấy qua biểu hiện trên gương mặt của ông ta. Kế đến ông
ta dùng bàn tay đó chạm lên trán của ông ta và rồi đặt bàn tay đó thẳng ra bên
hông.
Tôi
cảm thấy hơi ấm trên ngực của ông ta giảm dần. Một hoặc hai phút sau, ông ta bất
chợt co giật một cái và trút hơi thở cuối cùng. Sau đó ông ta trở nên bất động.
Khi cái thân xác hoàn toàn lạnh, tôi rút bàn tay tôi khỏi ngực ông và nhìn
quanh. Tôi thấy mọi người kẻ đứng người ngồi đều hoàn toàn tĩnh lặng.
Chẳng
ai khóc, cũng chẳng có bất kỳ một âm thanh than khóc từ bất cứ một hướng nào.
Đây là một sự từ biệt sau cùng thích hợp cho một người đang ra đi, hoàn toàn
theo đúng những giáo huấn tôi đã đưa ra cho những môn đồ của tôi trong quá
trình giảng dạy về những vấn đề tôn giáo. Rồi tôi rời ngôi nhà đó, bảo những
người thân và bạn bè của người chết đó nếu muốn thì cứ khóc, vì vào thời điểm
đó thì những sự than khóc như thế không còn có thể tạo ra bất kỳ một tác động
nào đối với người chết.
Sự
kiện này cuối cùng cũng đã kết thúc những mối nghi ngờ mà tôi có thể đã có trước
kia về sự đáng tin của bài kệ kể về sự xuất hiện của năm viễn ảnh mà tôi đã được
nghe Thượng tọa Jnanishwar Mahathera kể và cũng đã đọc được trong Kinh. Về sau,
khi tôi hướng cái tâm phân tích của tôi về trường hợp của người đàn ông hấp hối
đó, tôi nhận ra rằng ở mỗi giai đoạn thì những cái viễn ảnh (nimittas) hiện
ra tương ứng với cái trạng thái của cái tâm (citta) ông ta.
Quang
cảnh của Cây Bồ Đề và cha mẹ đã qua đời của ông ta là những kết quả của cái viễn
ảnh về nghiệp của ông ta, nghĩa là cái yếu tố vượt trội hơn thắng thế trong tâm
thức của ông ta do bởi cái lực của những hành động ông ta đã làm trong kiếp sống
hiện tại. Nhưng, chốc chốc, khi ông ta nhìn thấy viễn ảnh của một người đầy tóc
hoặc những con chim bồ câu hoặc những con quỷ đáng sợ, thì đó là những dấu hiệu
khi cái tâm của ông ta tạm thời bị khống chế bởi những bám víu thế tục hoặc sự
nhớ lại những hành động xấu mà ông ta đã làm trong đời này.
Việc
tụng niệm những bài Kinh đã xua đuổi những tư tưởng quái ác và kết quả là những
ma quỷ xuất hiện biến mất. Sự làm tinh sạch (thanh tịnh) tâm xảy ra bằng cách
nghe Kinh và thọ nhận Năm Giới khiến cho sự xuất hiện của chư thiên có thể xảy
ra. Cho đến lúc ra đi, cái trạng thái này của tâm mạnh mẽ hơn bất kỳ thứ gì
khác. Nó thậm chí còn mãnh liệt hơn cả cái viễn ảnh lẩn quẩn của cha mẹ ông ta
– cái viễn ảnh mà đã biến mất để con đường được làm cho tuyệt đối rảnh rang cho
người đàn ông đang sắp chết đi đến cõi trời sau khi ông ta rời khỏi thế giới
này.
* * *
* * *
Cái
kết luận mà người ta có thể rút ra từ sự kiện bất ngờ này là cái giây phút cuối
cùng trong đời của một con người chứng minh người đó sẽ được tái sinh về một
cõi giới cao hơn hay thấp hơn. Do đó, bổn phận của tất cả những người cầu nguyện
cho một người đang hấp hối để làm cho tâm người đó được an bình bằng cách nhắc
người đó về những thiện hạnh họ đã làm trong đời và bằng cách tụng Kinh và Phúng
Tụng. Người ta không nên làm mờ tâm trí người chết do bởi khóc than hoặc
thương tiếc hoặc lôi kéo tâm trí người đó vào những vấn đề của trần gian.
Tôi
cũng hiểu rằng dù một người có mộ đạo hay sùng tín đến đâu chăng nữa thì cũng
không có một lượng thiện hạnh nào của người đó có thể mang lại cho họ sự giải
thoát tối hậu hoặc làm cho họ có khả năng thực chứng được Niết bàn, mục tiêu tối
thượng của cuộc đời. Thiện hạnh chỉ có thể đưa đến sự tái sinh vào những cõi giới
hạnh phúc ở thế giới kế tiếp, thế giới cao nhất là thế giới Phạm Thiên (cõi Trời
Phạm Thiên). Chỉ có qua sự thực hành thiền quán (vipassana-bhavana) người
ta mới có thể vượt qua được mười Sự Trói Buộc (Kiết Sử - dasa samyojana)
và đạt được bốn giai đoạn giải thoát: Nhập Vào Dòng Chảy (Nhập Lưu - sotapatti -
stream-entry), Trở Lại Một Lần (Nhất Lai - sakadagami - once-
returning), Không Còn Trở Lại (Bất Lai – anagami - non-returning),
và Giải Thoát Hoàn Toàn (A-la-hán - arahatta -
full liberation).
Trong
mười Sự Trói Buộc, ba Trói Buộc đầu tiên được gọi là: Tự Lừa Dối Mình (Thân Kiến
- sakkaya-ditthi), Hoài Nghi (vicikiccha), và Bám Víu Vào Những Giới
luật và Nghi Lễ (Giới Cấm Thủ - silabbata-paramasa), có thể được khắc phục
bằng sự đạt được giai trình đầu của sự thánh hóa - Nhập Vào Dòng Chảy. Một người
đã thành tựu được giai trình này thì sẽ không sinh vào những cõi giới thấp – cõi
địa ngục (niraya), cõi ma đói (peta), và cõi thú vật (tiracchana) – và sẽ không
bị tái sinh hơn bảy lần nữa; đối với những vị này, sẽ không có một viễn ảnh nào
về ba cõi thấp xuất hiện vào thời điểm lâm chung. Họ có thể chỉ có những viễn ảnh
về cõi người hoặc các cõi trời.
Một
người đạt được những tiến bộ xa hơn nữa trong thiền định và đạt đến giai đoạn
Trở Lại Một Lần bằng cách chế ngự được Sự Trói Buộc thứ tư và thứ năm, đó là sự
ham muốn thú vui xác thịt (kamaraga – nhục dục) và lòng sân hận (patigha),
thì sẽ còn tái sinh chỉ một lần nữa thôi. Đối với các vị này thì ba viễn ảnh dầu
điên cũng sẽ không xuất hiện mà chỉ có một trong hai viễn ảnh về cảnh sống hạnh
phúc sẽ xuất hiện trước khi chết mà thôi.
Một
người đã đạt được giai đoạn Không Còn Trở Lại qua việc tiếp tục sự thiền định
sâu xa hơn nữa, bằng cách hủy diệt hoàn toàn được hai sự trói buộc trước, đó là
sự ham muốn thú vui xác thịt và lòng sân hận, thì sẽ không còn bị tái sinh lại
trong thế giới này nữa mà sẽ được tái sinh về cõi trời Phạm Thiên, từ cõi này
người đó sẽ đạt được sự giải thoát sau cùng. Một người như thế sẽ có duy nhất một
viễn ảnh, đó là viễn ảnh về loài trời (chư thiên).
Sau
khi thành tựu giai đoạn này rồi, qua việc tiếp tục theo đuổi thiền định sâu xa
hơn nữa, người ta có thể thành tựu giai đoạn A-la-hán bằng cách triệt tiêu được
năm Sự Trói Buộc còn lại, đó là sự tham muốn đời sống vật chất xinh đẹp (sắc dục
– rupa-raga), sự tham muốn đời sống phi vật chất (vô sắc – arupa-raga), tánh
kiêu ngạo (mana), sự xao động (uddhacca – còn gọi là trạo cử), và sự ngu si
(avijja – vô minh). Một người như thế sẽ không bị sinh trở lại nữa vì đã đạt được
sự giải thoát cuối cùng, và vì thế mà không có một viễn ảnh nào về bất kỳ một loại
cảnh tượng nào có thể xuất hiện trước mặt vào thời khắc lâm chung.
Niết
bàn là mục tiêu cuối cùng của kiếp sống được đức Phật khám phá ra. Sự khám phá
này do đức Phật đạt được qua kinh nghiệm bản thân từ sự thực hành thiền định.
Những môn đồ thực sự của Ngài là những ai bước đi trên con đường Ngài đã chỉ
ra, và chỉ có qua việc công phu hành thiền thì cái đích cuối cùng của Niết bàn
mới có thể đạt được ở thế giới này đây. Những viễn ảnh chỉ có thể đóng vai trò
những cột đèn trong cái mê cung của kiếp người, đôi khi tối, đôi khi sáng.
Nhưng cái đích cuối cùng của kiếp sống – ánh sáng chân thật – thì nằm tận cùng ở
sự thành tựu Niết bàn, cái đích mà người ta có thể từng bước đạt được qua sự
công phu thiền quán.
Tác giả là Thượng tọa
Rastrapal Mahathera, trụ trì và thiền sư tại Trung Tâm Thiền Quốc Tế ở Bồ Đề Đạo
Tràng (Ấn độ).
Dịch từ nguồn: Dhammasukha
No comments:
Post a Comment