Một Diễn Giải Về Quán Đảnh Thời Luân
Lễ hội Quán Đảnh Thời Luân thường là được tiến hành
qua 12 ngày. Trước tiên là có tám ngày dành cho những nghi lễ chuẩn bị, trong
thời gian này các tăng sĩ kiến tạo mạn đà la. Rồi các môn sinh được ban truyền
pháp quán đảnh, và sau đó họ được cho phép nhìn thấy mạn đà la bằng cát đã
hoàn thành. Lễ hội kết thúc khi các tăng sĩ phóng thích năng lượng tích cực của
mạn đà la vào thế giới thường nhật qua một nghi lễ cuối cùng.
‘Quán đảnh’ trong chữ viết Tây Tạng là wong-khor,
nghĩa đen là ‘cho phép’, hoặc ban cho cái quyền được thực hành Mật Tông
(Tantra). Người ban truyền pháp quán đảnh đó là người được coi là vị thủ lễ hoặc Đạo Sư Kim Cương, bởi vì kim cương là khí cụ tâm
linh cắt xuyên qua ảo tưởng và tượng trưng cho cái tâm bất khả hủy diệt. Vì tự
thân mật tông sống động qua sự trao truyền trực tiếp bởi các Đạo Sư Kim Cương, cho
nên lễ quán đảnh làm thỏa mãn thệ nguyện của vị Đạo Sư Kim Cương là luôn luôn
vì lợi ích của tất cả chúng sinh mà truyền thừa mật điển không để xảy ra bất kỳ
một sự suy giảm nào.
Trong lễ quán đảnh đó, môn sinh cũng lập một thệ nguyện
tương tự là sẽ kính trọng và bảo trì những giáo pháp đó. Qua nghi thức như vậy,
môn sinh nhập môn dòng truyền thừa đó. Môn sinh được phép chọn lựa để nhận lãnh
những mức độ dấn thân khác nhau. Người nào duy trì sự dấn thân qua sự tận tâm thực
hành hàng ngày thì người đó sẽ đạt được những thành quả lớn lao hơn, và dòng
truyền thừa đó sẽ được bền vững hơn. Hoặc là có người được ban pháp quán đảnh
chỉ để làm một sự gia trì.
Môn sinh này, bằng cách tự làm cho mình trở thành như
là một vị hộ thần, được giới thiệu cho những thể dạng tâm thần mới mà có thể
giúp cho mình từ bỏ được cái trạng huống cũ tạo ra sự hủy diệt. Và như vậy,
sẽ đưa môn sinh đó đến gần hơn với kinh nghiệm của cái tâm thức phúc lạc chân
thật của Pháp Thời Luân.
Nhiều vật thể trông đẹp mắt được sử dụng trong những
nghi lễ Thời Luân. Thekpu là ngôi nhà đặc biệt, nơi dùng để kiến tạo mạn đà la.
Có một chiếc ngai phủ gấm lụa có thêu vàng bạc và đó là nơi mà vị Đạo Sư Kim Cương,
trong trường hợp này là Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngồi để ban truyền quán đảnh, và
chiếc bàn thờ dành cho vị thần Thời Luân
gồm có những phẩm vật cúng dường và những pháp cụ được chuẩn bị rất là công
phu. Những tấm thảm thêu hình Đức Phật, Thời Luân, và nhiều vị thần bảo hộ khác
nhau được treo quanh nhà “thekpu”, quanh chiếc ngai và bàn thờ.
Vào ngày đầu tiên của lễ hội, một đại biểu của những
môn sinh thỉnh cầu Đạo Sư Kim Cương ban truyền pháp quán đảnh, và ngài đồng ý,
thể hiện lòng từ bi vĩ đại của ngài cho tất cả môn sinh. Kế đến, vị Đạo Sư Kim
Cương xin phép các vong linh sở tại để được sử dụng nhà của họ. Thường thì những
vong linh không muốn ủng hộ ngay từ đầu, cho nên để lấy lòng họ, các vị tăng hầu
cận biểu diễn Vũ Điệu Trần Gian (Dance of the Earth), tạo nên những điệu bộ
mang tính biểu tượng bằng tay và chân. Những lời cầu nguyện, âm nhạc và điệu
múa làm lắng dịu được tất cả những vong linh đang muốn quấy rối.
Khi buổi trình diễn múa kết thúc, Đức Đạt Lai Lạt Ma
tiếp nhận sự cho phép tiến hành lễ hội từ
Tenma, linh hồn của trái đất, nhân danh tất cả vong linh sở tại. Trong suốt lễ
hội, mạn đà la sẽ là nơi trú ngụ cho nhiều ngàn bổn tôn hộ thần được tìm thấy
trong Phật Giáo Tây Tạng. Những chiếc dao găm mang tính biểu tượng được đặt
quanh hiện trường mạn đà la được bày trí để bảo vệ. Tất cả những khí cụ sẽ được sử dụng
trong nhiều nghi lễ cho pháp hội đó đều phải được Đức Đạt Lai Lạt Ma ban phước, kể cả sợi
dây được dùng để vẽ mạn đà la và cát màu.
Để bắt đầu vẽ, sợi chỉ chuyên dùng cho nghi lễ được
nhúng vào một dung dịch của phấn trắng. Giữ căng một đầu sợi chỉ, đầu kia được
một người hầu cận nắm giữ, vị Đạo Sư Kim Cương khảy sợi chỉ và phấn rơi trên
cái nền tạo thành những đường nét đầu tiên để làm mạn đà la. Mỗi lần vị Đạo Sư
Kim Cương khảy sợi chỉ, cái âm thanh ngắn vội đó vang lên một sự ban phước của
Đức Phật cho việc tạo nên một mạn đà la. Phải mất đến hai ngày mới vẽ hết tất cả
những đường nét phải vẽ, bản phát họa của mạn đà la trong giai đoạn này trông
như là một bản phác thảo khổng lồ, có đường kính đến bảy bộ Anh/Mỹ (hơn 2 mét).
Vào ngày thứ ba, một loại gia vị đặc biệt và nghệ
tây được trộn với nước và rắc lên những đường vẽ của mạn đà la; nhân đó,
vị Đạo Sư Kim Cương xóa bớt một số đường vạch trên bản phác thảo của mạn đà la,
mở một lối vào cho 722 vị thần mà sẽ ở lại trong mạn đà la này trong suốt thời
gian lễ hội. Để đi vào thế giới của chúng ta, những vị thần này cần một nơi
thanh tịnh để trú ngụ. Những hạt lúa mì cũng được đặt trên mạn đà la lúc này, tiêu
biểu cho những chiếc bồ đoàn mà chư thiên và thiên nữ được mời đến ngồi.
Ba đường song
song được vạch ra, rồi Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt những hạt cát đỏ, trắng, và đen đầu tiên gần trung tâm của mạn
đà la. Ba đường này tiêu biểu cho thân, khẩu và ý của Đức Phật. Rồi các vị tăng
tiếp tục dùng cát để làm. Chỉ riêng việc ghi nhớ được hàng trăm biểu tượng
trong thiết kế mạn đà la và học cách vẽ bằng cát cũng phải mất ít nhất là hai
năm miệt mài cật lực. Bắt đầu từ ở giữa và đi lần ra ngoài, các vị tăng dùng một
cái phễu có nhiều khấn như răng cưa ở trên, được gọi là chakpu, để tạo nên những
đồ hình chi tiết. Khi hai cái chakpu cọ
vào nhau, cát màu chảy đều đặn như ý muốn thành một giòng chảy mỏng xuống mạn đà la. Một cái nạo bằng gỗ, gọi là
shinga, được dùng để điều chỉnh những đường thẳng cho ngay ngắn và sửa chữa những
lỗi sai.
Cuối cùng, khi mạn đà la đã hoàn thành, những chiếc
lọ thiêng liêng được bày trí xung quanh. Mọi phía của thekpu (phòng để làm mạn
đà la) đều được những bức màn che kín để cho mạn đà la sẽ không bị nhìn thấy
trước thời điểm thích hợp. Đức Đạt Lại Lạt Ma cúng dường để bày tỏ lòng cám ơn
đến các vong linh và chư thần về sự hợp tác của họ. Các vị tăng biểu diễn những
điệu nhạc thiêng liêng bằng chuông, phèng la, trống và những chiếc kèn khổng lồ
dài đến mười hai bộ Anh/Mỹ (dài hơn 3 mét). Họ cũng thực hiện một buổi múa chúc
mừng kéo dài hơn một tiếng rưởi đồng hồ.
Ngày thứ chín, sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma và chư
tăng kết thúc thời cầu nguyện và hành thiền buổi sáng, các môn sinh lần đầu
tiên được đến để tham dự. Những ai có ước muốn được ban pháp quán đảnh để thực
hành Mật Pháp Thời Luân đều phải thệ nguyện bày tỏ tâm từ bi đến tất cả mọi vật
có sự sống, làm việc vì lợi ích của tha nhân, và không bao giờ tiết lộ bí mật của
mạn đà la.
Mỗi môn sinh được ban tặng một cọng cỏ kusha, vì Đức
Phật ngồi trên cỏ kusha dưới cội Bồ đề lúc Ngài đạt giác ngộ. Các môn sinh được
bảo là đặt những cọng cỏ kusha dài dưới những tấm thảm và cọng ngắn dưới gối của
họ. Điều này giúp cho các môn sinh ghi nhớ và tìm hiểu những giấc mộng của họ
trong đêm đó.
Ngày kế tiếp, sau một số nghi lễ sơ khởi thì lễ quán đảnh chính thức được bắt đầu. Khi các môn sinh đã bày tỏ những thệ nguyện
về việc thực hành thiện hạnh, Đức Đạt Lai Lạt Ma thỉnh cầu Thời Luân khai nhãn
cho họ. Mỗi môn sinh đều đã nhận một dải băng bịt mắt màu đỏ quấn quanh trán của
mình làm biểu tượng, vì những môn sinh đó đều chưa có sẵn sàng về mặt tâm linh
để nhìn thấy mạn đà la bằng cát, và bây giờ họ lấy những dải băng bịt mắt ra,
tượng trưng cho việc tháo bỏ bóng tối của vô minh. Giờ phút này họ đã sẵn sàng
để ‘diện kiến’ mạn đà la.
Kế đến, vị Đạo Sư Kim Cương ban cho những môn sinh
những điều mà được gọi là Bảy Pháp Quán Đảnh Ấu Thơ. Những pháp quán đảnh này sẽ giúp các
môn sinh được tái sinh trong suốt thời gian của lễ hội như là những con người
lý tưởng bước vào thế giới toàn hảo của mạn đà la đó. Mỗi một pháp quán đảnh
tương ứng với một sự kiện trọng đại trong đời sống của một đứa trẻ. Bảy pháp
quán đảnh tượng trưng cho việc đứa trẻ được nhận một cái tên, lần đầu tiên được
tắm, lần đầu tiên được cắt tóc, lần đầu tiên trải nghiệm năm giác quan, được
xỏ lỗ tai, nói tiếng nói đầu tiên, và học đọc chữ.
Sau khi các môn sinh đã được ‘tái sinh’ qua việc
hoàn thành những pháp quán đảnh ấu thơ, họ được phép bước vào thế giới lý tưởng
của Bánh Xe Thời Gian (Thời Luân) – thế giới của giác ngộ, do vị thần Thời Luân
trị vì. Những môn sinh lúc này có thể quan sát mạn đà la. Mạn đà la Thời Luân bằng
cát đó biểu lộ 722 vị trời và thiên nữ cũng như cung điện mà họ trú ngụ trong
đó. Hình ảnh bốn mặt của vị thần tên là Thời Luân cũng được tạo ra. Người ta
dùng bốn khu vực có hình dáng cái nêm, có màu sắc, nằm trong phạm vi của vòng tròn, để
tượng trưng cho bốn mặt của Ngài trong mạn đà la đó. Một cái nêm xanh đen, hoặc
cái mặt, ở phần dưới cùng của bức hình nhìn về hướng đông. Mặt màu đỏ nhìn về hướng
nam. Mặt trắng nhìn về hướng bắc. Mặt màu da cam trên đỉnh nhìn về hướng tây.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cùng chư tăng tụng kinh cầu nguyện để chuẩn bị và cúng đất cho lễ Quán Đảnh Thời Luân tại Leh, Ladakh, J&K, Ấn độ hôm 03/07/2014 Ảnh: Photo/Manuel Bauer Nguồn ảnh: dalailama.com |
Nếu bạn hình dung ra mạn đà la đó trông giống như những
gì theo như quan niệm về vị thần này, thì bên
trong mạn đà la đó và tại trung tâm, mặt
màu đen của vị thần này nhìn thẳng tới trước, mặt màu đỏ nhìn sang bên phải của
Ngài, mặt trắng nhìn sang trái, và mặt vàng nhìn về phía sau lưng. Trong mạn đà
la đó còn có thêm biểu tượng của 721 vị thần nữa, cũng như thú vật, bông hoa và
châu báu. Cung điện Thời Luân, nơi những vị trời và thiên nữ sinh sống, là cái
hình vuông lớn nhất nằm trong phạm vi của vòng tròn. Tòa nhà này có năm tầng, mỗi
tầng gồm một hình vuông với bốn bức tường. Giữa mỗi bức tường là một lối vào. Để
đến được những biệt điện trung tâm thâm kín nhất của tòa lâu đài, những hành giả
đã được ban quán đảnh phải du hành qua con đường rắc rối được tạo nên bởi những
hình vuông đó. Mỗi hình vuông tượng trưng cho một phương diện khác nhau của một bậc
đã giác ngộ.
Mạn đà la đó nhìn thấy bằng phẳng, nhưng bạn có thể
dùng trí tưởng tượng của mình để làm cho nó thành một bức hình nhô lên theo
không gian ba chiều về phía trung tâm hình hoa sen của nó. Để truy lần theo con đường
đến giác ngộ, bạn bước vào lối đi màu đen ở phía đông từ bên trong tòa nhà.
Bạn sẽ tự nhận ra là mình đang hiện diện trên tầng đầu tiên của cung điện. Tầng
này được gọi là mạn đà la của thân giác ngộ. Nửa đường bên trong mạn đà la thân
là một tổ hợp gồm bốn bức tường và một lối vào. Khi bạn tiếp tục ngang qua lối
vào, bạn đã đạt đến mạn đà la của khẩu đã giác ngộ. Nửa đường bên trong đó nữa,
có một tổ hợp gồm những bức tường và những lối vào mà ở đó bạn sẽ khám phá ra được một tầng bậc thậm
chí còn cao hơn nữa, được gọi là mạn đà la của tâm đã giác ngộ. Nửa đường bên
trong mạn đà la tâm đó là một mặt phẳng hình vuông tượng trưng cho mạn đà la của
trí tuệ đã giác ngộ.
Một khi đã ở bên trong mạn đà la của trí tuệ rồi, bạn
sẽ tìm thấy một mặt phẳng hình vuông khác nữa. Đây là tầng cao nhất của cung điện,
mạn đà la của đại phúc lạc giác ngộ. Bên trong đó là một đóa sen tám cánh, ở giữa
đóa sen đó là vị thần Thời Luân đứng ôm vị phối ngẫu nữ của mình, Vishvamata, Mẹ
Tất Cả. Chung quy lại, những điều này biểu trưng cho sự giác ngộ viên mãn, sự kết
hợp của trí tuệ và lòng từ bi.
Trên khắp mạn đà la đó còn có nhiều biểu tượng khác
có thể nhận diện được. Mười hai con vật, được đặt ở tầng thấp nhất của cung điện,
được kết hợp với mười hai tháng trong năm. Mỗi con vật nâng một đóa sen,
nơi được tượng trưng cho ba mươi vị thần, tiêu biểu cho ba mươi ngày trong
tháng đó. Và chung quanh khắp cả cung điện là những dải băng hình tròn được bày
biện để tượng trưng cho những nguyên tố cổ điển: màu vàng tượng trưng cho
nguyên tố đất, một dải băng trắng được uốn gợn sóng tượng trưng cho nước, màu đỏ
da cam tượng trưng cho lửa, màu xám cho gió, và sau hết là dải băng ngoài cùng
tượng trưng cho không gian và tâm thức. Với sự hướng dẫn tâm thức và nội
nhãn từ vị Đạo Sư Kim Cương, các môn sinh bắt đầu được phép bước vào cung điện
toàn hảo. Nhưng muốn đạt được giác ngộ thì các môn sinh đó trước tiên phải chịu nhọc
công để kiện toàn những kỹ thuật thiền định và lòng từ bi của họ hướng
về khắp tất cả chúng sinh.
Trong phần cuối của lễ hội đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma cầu nguyện, cám ơn 722 vị thần đã đến tham dự và thỉnh cầu chư
vị đó rời khỏi mạn đà la trở về những ngôi nhà thiêng liêng của họ. Ngài lấy đi
số cát làm biểu tượng tượng trưng cho những vị thần đó, rồi Ngài dùng một pháp
cụ cắt xuyên qua mạn đà la dọc theo những đường nét mà nguyên là hình dạng của
một bánh xe. Cát đó được cào về phía tâm của mặt bằng (dùng để làm mạn dà la),
và rồi những vị tăng đó cho vào những cái bình và đưa đến một sông ngòi hoặc
ao, hồ, biển cả nào gần đó. Cùng với việc tụng kinh và cầu nguyện, một vị hầu cận
nghi lễ cho hết cát xuống nước, và sự bình an hoàn hảo của Thời Luân chảy theo
nó vào thế giới thường nhật. Mạn đà la đó, bây giờ đã khuất mắt, vĩnh viễn lưu
lại trong ký ức của tất cả những ai đã bước vào cảnh giới toàn hảo của nó.
Mặc dù triết lý Thời Luân nằm ở trình độ cao nhất của
Phật Giáo, thế nhưng bất kỳ ai cũng có thể sử dụng nó ở bất cứ thời điểm nào.
Triết lý này thúc giục chúng ta, qua việc dùng Thời Luân làm khuôn mẫu, mau đạt
đến một thế giới nội tâm rạng ngời, thuần khiết ngay trong lúc chúng ta vẫn
đang sống trong thế giới trần tục và bất toàn của mình. Chẳng hạn như, có được một thân thể
thanh tịnh là nhờ ăn uống những thực phẩm an toàn và không hút thuốc, không uống rượu
hoặc dùng những chất ma túy. Lời nói thanh tịnh có nghĩa là không tán gẫu hoặc
nói những điều không tốt về người khác. Một tâm thanh tịnh là tâm đã được điều phục, xa rời những tư tưởng nóng giận, thù hận và ích kỷ. Một khi mỗi chúng ta thanh
tịnh được thân, khẩu và ý của mình rồi, chúng ta có thể tìm thấy được sự an bình ở nội tâm. Khi chúng ta có được sự an bình ở nội tâm rồi thì điều tối thiểu là sự
kinh nghiệm trạng thái phúc lạc hoặc hạnh phúc toàn hảo là điều có thể xảy ra.
No comments:
Post a Comment