Những Quán Đảnh Thời Luân
Do
Đức Đạt Lai Lạt Ma Ban Truyền
Dịch từ nguồn: Kalachakra Initiations by His Holiness the Dalai Lama
Người dịch: Nguyệt Quang Bảo
(25/07/2015)
Người dịch: Nguyệt Quang Bảo
(25/07/2015)
Giới Thiệu Mật Pháp Thời Luân
Trình Bày Khái Quát Về Giáo Pháp
Giáo Pháp của Đức Phật có thể được chia
thành hai thừa, Tiểu Thừa và Đại Thừa. Riêng Tiểu Thừa có thể được chia thành
Thanh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa. Người ta có thể phân biệt được các vị Thanh
Văn và Duyên Giác qua những nhược điểm và ưu điểm trong khả năng và những kết
quả mà họ đã đạt được, nhưng về những nét đặc trưng trong giáo lý mà họ tu tập
thì căn bản là giống nhau. Những người có khuynh hướng tu tập theo hai đường tu
Tiểu Thừa này tiếp nhận những pháp tu đó vì lợi ích của sự tự giải thoát cho
chính bản thân họ, vì họ cảm thấy cấp bách phải tự giải thoát mình trước hết,
càng nhanh càng tốt ra khỏi cái vòng lẩn quẩn của sinh tử luân hồi. Vì cái
nguyên nhân chính của sự trói buộc trong cõi luân hồi là sự bám chặt lấy một
cái tự ngã, cái nhân chính để đạt được sự tự do của giải thoát là trí tuệ chứng
ngộ được cái nghĩa lý của vô ngã. Vì vậy, cũng giống như chư Bồ-tát, các vị
Thanh Văn và Duyên Giác chứng thực được vô ngã. Họ thiền tập về vô ngã kết hợp
với những pháp tu về thực hành thiện hạnh, thiền chỉ và v.v... và từ đó họ cắt
đứt được gốc rể của tất cả những đam mê, tham lam, thù hận, vô minh v.v…
Dù rằng hàng Tiểu Thừa không
mang theo trên đường tu của họ cái ý định đạt đến Phật Quả, nhưng pháp tu
của họ thực tế là một phương tiện mà cuối cùng cũng sẽ đưa những người như thế
đến giai đoạn thành tựu quả vị Phật. Do vậy, đừng có nhầm mà coi những pháp tu
Tiểu Thừa chỉ đơn thuần là một chướng ngại cho việc đạt đến giác ngộ, bởi vì
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa và những Kinh Luận khác có dạy rằng đó là những phương
pháp để đạt đến Phật Quả. Đức Phật xuất hiện ở thế gian nhằm mục đích để
cho chúng sinh có thể đạt được sự ngộ đạo mà chính bản thân Ngài đã đạt được.
Do vậy, những sự hiển bày về con đường tu tập đều không không gì khác ngoài mục
đích dẫn dắt chúng sinh đến quả vị Phật. Đành rằng những pháp tu của Tiểu Thừa
không trực tiếp dẫn đến Phật Quả, nhưng người ta học được rằng trong thực tế những
hành giả Tiểu Thừa rốt cùng cũng thực sự bước vào Đại Thừa và đạt được quả vị
Phật.
Cũng giống như những hành giả Đại Thừa,
những hành giả Tiểu Thừa tuy rằng chứng thực được các pháp đều không có
tự tính, nhưng điều này không có nghĩa là hoàn toàn không có sự
khác biệt nào cả giữa Tiểu Thừa và Đại thừa. Các giáo lý Đại Thừa không chỉ đơn
thuần là làm tỏ rạng sự vô ngã của vạn pháp, mà dạy cả những giai trình Bồ-tát
đạo, những pháp tu Ba la mật, sự cầu nguyện để đạt được giác ngộ viên mãn vì
lợi ích của tất cả chúng sinh, lòng đại từ bi, v.v… Giáo pháp Đại
Thừa còn dạy cho hành giả sự hồi hướng công đức đến sự giác ngộ, hai sự tích
tập công dức và trí huệ, và một thực tế không thể nghĩ bàn là sự thanh tịnh
được tất cả những nhiễm ô.
Như vậy, người ta phân biệt Đại Thừa và
Tiểu Thừa không phải do những khác biệt trong những triết lý của hai thừa, mà
qua tất cả mọi cấp độ của những phương tiện thiện xảo, hai Thừa này bị phân
biệt dựa theo những gì họ thực hành và những gì họ không thực hành. Đây là sự
quả quyết của Bồ-tát Long Thọ và đệ tử của Ngài là Thánh Thiên: Một người mẹ là
chủng tử chung cho tất cả con cái của bà, và những người cha của những đứa con
đó là những chủng tử tạo nên sự khác biệt chủng tộc của chúng nó. Cũng
như bà mẹ là chủng tử chung của những người con, trí bát nhã là chủng tử chung
của cả bốn loại thánh giả: thanh văn, duyên giác, bồ tát, và phật. Cái nhân để
phân biệt những thánh giả vào những dòng truyền thừa nào đó của Tiểu Thừa và
Đại Thừa là vấn đề những thánh giả đó có những phương pháp để phát khởi tâm bồ
đề và những thiện tâm khác như vậy hay không. Giống như Tiểu Thừa, Đại
Thừa phổ thông có thể được phân thành hai thừa: Ba la mật thừa (Hiển giáo) và
Chân Ngôn thừa (Mật giáo). Cái đích chung của Đại Thừa là tự rèn luyện mình
trong sáu ba la mật bằng cách thực hành sáu ba la mật đó vì sự khát khao đạt
được giác ngộ tột cùng vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Rõ ràng là qua
cùng pháp tu đó người ta có thể tiếp tục tu theo Chân Ngôn Thừa, bởi vì phương
pháp đó có dạy trong những mật điển (tantras). Tuy nhiên, những hành giả Đại
Thừa nào tu theo Ba la mật thì chỉ đơn thuần tiếp nhận bấy nhiêu cái phần phổ
thông của pháp tu đó, còn những người tu theo Chân Ngôn thì trau dồi sáu ba la
mật đó bằng cách sử dụng những kỹ thuật mật tông đặc biệt mà không được dạy
trong Ba La Mật Thừa.
Những Thuật ngữ “Nhân Thừa”, “Ba-la-mật
Thừa”, và tương tự như vậy, là những từ đồng nghĩa, và “Chân Ngôn Thừa”,
“Kim Cang Thừa”, “Quả Thừa”, và “Pháp-môn Thừa” cũng là những từ đồng nghĩa. Có
một sự khác biệt giữa Nhân Thừa và Quả Thừa: Nhân Thừa là Đại Thừa mà trong đó
không có sự thiền quán về việc tự thân hành giả có một khía cạnh tương đồng với
bất kỳ một kết quả nào trong những kết quả - bốn thuần tịnh – trong giai đoạn
đang bước trên con đường tu tập. Đại Thừa mà trong đó có sự thiền quán về chính
hành giả như là đang có một khía cạnh tương đồng với bốn thuần tịnh trong
thời gian đang bước trên con đường tu tập thì được gọi là “Quả Thừa” hoặc là
“Chân Ngôn Thừa”. Đây là những gì mà đạo sư Tsongkhapa đã nói trong Ngag
Rim Chenmo: “Nói đến cỗ xe, vì nó là cỗ xe của những sự chuyển tải, chẳng
hạn, cái quả phải có từ đó hiện diện nơi đây cùng với cái nhân cho ra cái
quả mong muốn này, đó gọi là ‘cỗ xe’. Cái quả là bốn sự thuần tịnh về nơi
ở, thân thể, tài sản và hoạt động trở thành một cung điện, thân thể, tài của và
hành vi của một vị Phật. Hành giả thiền quán từ giây phút hiện tại về chính bản
thân mình như là một vị Phật, đang có một lâu đài thiêng liêng, một đoàn tùy
tùng thiêng liêng, những pháp cụ thiêng liêng, và những hành động thiêng liêng
về việc thanh tịnh vũ trụ và những cư dân trong đó. Vì vậy, đó là Quả Thừa bởi
vì người ta đạt được tiến bộ qua việc thiền định phù hợp với cỗ xe của kết
quả.”
Từ đó, Đại Thừa, nói chung, được chia
thành Ba-la-mật Thừa và Chân Ngôn Thừa vì hai Thừa này có những phương
tiện khác biệt đáng kể để thành tựu một Sắc Thân Phật mà từ đó hoàn thành những
mục tiêu của tha nhân. Nói chung, Tiểu Thừa và Đại Thừa không có khác biệt nhau
theo bất kỳ một sự khác biệt nào trong trí tuệ của họ về tánh không, nhưng cần
phải được rạch ròi bởi những khác biệt ở những phương pháp tu tập của họ
như đã đề cập đến ở trên. Trường hợp đặc biệt, mặc dù Đại Thừa được chia thành
Ba-la-mật Thừa và Chân Ngôn Thừa, sự phân chia này không phải đến từ bất kỳ một
sự khác biệt nào về trí tuệ thực chứng tánh không thậm thâm của họ; hai hệ
thống Đại Thừa phải được phân biệt rành rẽ dựa trên quan điểm về những khác
biệt trong những phương pháp tu tập của họ. Nét chính yếu của pháp tu
trong Đại Thừa là những phương thức tu luyện để đạt được Sắc Thân, và pháp tu
đạt được Sắc Thân trong Chân Ngôn Thừa chỉ là pháp Du Già Bổn Tôn, thiền về
chính mình như đang có một nét giống với một nét của Sắc Thân. Pháp tu này cao
hơn pháp tu được áp dụng trong Ba-la-mật Thừa.
Căn cứ vào những môn đệ của Chân Ngôn Thừa, có bốn dạng: thấp, trung bình, cao, và xuất sắc. Bốn lớp học mật tông được dạy qua bốn dạng đệ tự trong tâm. Vì là các đệ tử đi vào Chân Ngôn Thừa qua bốn lớp học của mật tông, cho nên bốn lớp học đó được ví như là “bốn cánh cửa”. Nếu bạn thắc mắc bốn cánh cửa đó là những gì, thì đó là Ritual Tantra, Conduct Tantra, Yoga Tantra, và Unexcelled Yoga Tantra. Mật pháp Thời Luân (Kalachakra), sẽ được diễn bày dưới đây, thuộc về lớp Tối Thượng Du Già Tantra (the Unexcelled Yoga Tantra class).
Một diễn giải
về Kalachakra, hay Bánh Xe Thời Gian (Thời Luân)
Toàn thể ý nghĩa về chủ đề mật pháp Thời Luân bao gồm nội trong ba Kalachakra, hay là ba Thời Luân: Thời Luân Trong, Thời Luân Ngoài, và
Thời Luân Khác. Thời Luân Ngoài là thế giới cảnh quang ở bên ngoài, và còn được
gọi là “sự vận hành của ngày dương lịch và âm lịch ở bên ngoài.” Thời Luân
Trong là thân thể con người, đó là một cõi Diêm Phù Đề, hay là mặt đất. Tương
tự như vậy, những kinh mạch, những nguyên tố bên trong và những sự chuyển động
của khí được xem là Thời Luân Trong. Thời Luân Khác là những sự quán đảnh và
những pháp tu Shri Kalachakra cùng với những thành quả thu thập được từ những
sự việc này. Thời Luân này “khác” với hai Thời Luân trước. Vị đạo sư làm cho sự
tương tục của mối tương quan giữa tâm lý và vật lý của người đệ tử chin muồi
bằng những pháp quán đảnh, và người đệ tử tham thiền về phương pháp mà nó bao
gồm tiến trình phát khởi và tiến trình hoàn thiện. Qua phương pháp này hành giả
du già hiện thực hóa được kết quả tu tập, đó là thân Phật, là linh ảnh của tính
Không. Đây là Thời Luân Khác.
Giáo lý của đức Phật về Thời Luân được diễn tả trong Mật Pháp Thời Luân, Thời Luân, Mật Tông Căn Bản:
“Lúc Đạo Sư hiển bày Phật Pháp trên đỉnh Linh Thứu theo hệ Bát Nhã, Ngài còn truyền dạy hệ thống chân ngôn tại Shri Dhanyakataka. Đức Đạo Sư đã truyền dạy những gì, mật điển gì, khi nào và Ngài trú ở đâu? Nơi Ngài trú là gì, người thế gian tham dự là những ai, và mục đích của sự truyền dạy đó là để làm gì?”
“Ngài đã truyền dạy Vô Thượng Đại Thừa, hệ thống Bát Nhã, cho chư Bồ tát trên đỉnh Linh Thứu. Và rồi đấng Như Lai cũng đồng thời cùng trú với chư Bồ tát và những thánh giả khác trong ngôi đại tháp đó, trong mạn đà la của pháp giới. Ngài trú trong ngôi nhà kim cương trùm khắp cả vũ trụ, giữa không gian, phi vật chất và rất là rực rỡ, không phân cách và chói lọi. Ngài truyền dạy mật điển trong Pháp giới xinh đẹp, vì công đức và sự ngộ đạo của loài người.”
Mật Tông Căn Bản cũng có nói rằng: “Rồi
thì hóa thân của Kim Cang Thủ, Vua Suchandra từ vương quốc nổi tiếng Shambhala
(một vương quốc huyền bí), đi vào Pháp giới đẹp
lộng lẫy. Trước tiên, ông đi nhiễu về phía bên phải, rồi với những bông hoa
được kết bằng châu báu ông đảnh lễ đôi bàn chân hoa sen của Đức Bổn Sư. Chắp
tay ngồi trước Đức Phật toàn hảo, Suchandra thỉnh cầu Đức Phật ban truyền giáo
lý mật tông, biên soạn và cả giảng dạy nữa.”
Mật Pháp Thời Luân được truyền dạy bởi vị Thầy của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài đã chỉ dạy phương pháp mà Ngài đã sử dụng để thực chứng được sự Giác Ngộ toàn hảo tối thượng dưới cội bồ đề tại Bồ đề Đạo tràng ở Ấn độ, trước rạng đông của một đêm trăng tròn tháng Tư (tháng Năm tây lịch). Ngài dạy Ba-la-mật thừa một năm. Đặc biệt, tại đỉnh Linh Thứu Ngài đã chuyển Pháp Luân Bát Nhã, Pháp Luân chúa tể, tối thượng của hệ Ba-la-mật của Đại Thừa.
Vào ngày trăng tròn tháng Ba (tháng Tư dương lịch), tháng thứ mười hai tính từ ngày Ngài đạt Giác Ngộ, Đức Phật thuyết giảng Ba-la-mật Thừa trên đỉnh Linh Thứu. Cùng lúc, Ngài hóa hiện một thân khác bên trong đại tháp Shri Dhanyakataka, gần khu vực Shri Parvata ở miền nam Ấn độ - nơi mà Ngài đã giảng dạy Mật Thừa.
Ngôi đại tháp từ chân đến đỉnh hơn sáu dặm (leagues (?)), và bên trong đại tháp Đức Phật phóng ra hai mạn đà la: bên dưới là mạn đà la của Dharmadhatu Vagishrara, bên trên là đại mạn đà la gồm những tinh tú rực rỡ. Đức Phật trên tòa sư tử Kim Cương ở chính giữa đại Mạn đà la của Kim Cương Giới, trú xứ của đại lạc. Ngài an trú trong Thời Luân Định và trụ trong sắc tướng của vị Lãnh Chúa của mạn đà la đó.
Chúng hội tuyệt hảo vây quanh Ngài trong mạn đà la đó bao gồm một tập hội chư Phật, chư Bồ-tát, các hung thần (thần phẫn nộ), chư thiên, long thần và thiên nữ. Bên ngoài mạn đà la, người thỉnh cầu là thân hóa hiện của Đức Kim Cang Thủ, Vua Suchandra của xứ Shambhala. Ngài đã từ Shambhala đến Shri Dhanyakataka bằng thần thông, và Ngài thỉnh cầu mật pháp Thời Luân được giảng cho đoàn tùy tùng là thính chúng bao gồm: chín mươi sáu quan trấn thủ danh tiếng của chín mươi sáu đại lãnh địa bên trong Shambhala, cùng với một tập hội vô biên của Bồ-tát, chư thiên, quỷ thần, và những kẻ phước duyên khác.
Đức Phật ban phát cho hội chúng Giáo
pháp tuyệt hảo – những pháp quán đảnh thế gian và xuất thế gian – và tiên đoán
rằng họ đạt được Phật Quả, rồi Ngài truyền dạy hội chúng giáo Pháp
Paramadibuddha, mười hai ngàn câu kệ Mật Điển Căn Bản Thời Luân. Đức Vua
Suchandra ghi lại thành một pho và dùng thần thông trở về lại Shambhala.
Tại Shambhala, Đức Vua soạn thảo một bản Luận sáu chục ngàn dòng về Mật Tông Căn Bản. Ngài cũng kiến dựng một mạn đà la Thời Luân bằng những chất liệu trân quý. Sau khi bổ nhiệm con trai là Sureshvara làm vua và cũng là người giảng dạy về mật điển, Đức Vua băng hà. Nhiều vị vua vĩ đại đã xuất hiện trong các triều đại của Shambhala, như: Kalki Yashas, Kalki Pundarika, và nhiều vị khác nữa. Họ đã làm cho Giáo Pháp Thời Luân thâm sâu tỏa sáng như mặt trời và mặt trăng.
Tại Shambhala, Đức Vua soạn thảo một bản Luận sáu chục ngàn dòng về Mật Tông Căn Bản. Ngài cũng kiến dựng một mạn đà la Thời Luân bằng những chất liệu trân quý. Sau khi bổ nhiệm con trai là Sureshvara làm vua và cũng là người giảng dạy về mật điển, Đức Vua băng hà. Nhiều vị vua vĩ đại đã xuất hiện trong các triều đại của Shambhala, như: Kalki Yashas, Kalki Pundarika, và nhiều vị khác nữa. Họ đã làm cho Giáo Pháp Thời Luân thâm sâu tỏa sáng như mặt trời và mặt trăng.
Thời Luân tiếp tục được truyền thừa qua
sự cha truyền con nối của các quốc vương (“thủ lĩnh”) xứ Shambhala, và cuối
cùng nó lại được đưa trở lại vào Ấn độ. Có hai mẫu chuyện nói về sự việc
này xảy ra như thế nào, một chuyện do truyền thống Ra kể và chuyện kia do
truyền thống Dro. (Truyền thống Ra và Dro sẽ được nói đến bên dưới).
Theo truyền thống Ra, Thời Luân và những luận giải liên quan đến Thời Luân nổi tiếng khi Giáo Pháp Bồ-Tát xuất hiện ở Ấn độ trong thời gian quốc gia này nằm dưới sự đồng trị của ba vị vua (ba vị vua trị vì cùng một lúc). Lấy Bồ-đề Đạo Tràng làm trung tâm, ba vị vua đó là: Dehopala, Tượng Sư (Thầy của loài voi), ở phương Đông; Jauganga, Nhân Sư (Thầy của loài người), ở phương Nam; và Kanauj, Mã Sư (Thầy của loài ngựa), ở phương Tây. Lúc đó có một đại học giả tên là Cilu, người đã thấu triệt được mọi khía cạnh của Phật Pháp, được sinh ra ở Oissa, một trong năm quốc gia thuộc miền đông Ấn độ. Đại học giả Cilu nghiên cứu tất cả kinh điển Phật giáo tại Ratnagiri Vihara, Vikramashila, và Nalanda. Đặc biệt là ông đã theo học tại Ratnagiri Vihara, nơi không bị tàn phá bởi người Thổ Nhĩ Kỳ.
Theo truyền thống Ra, Thời Luân và những luận giải liên quan đến Thời Luân nổi tiếng khi Giáo Pháp Bồ-Tát xuất hiện ở Ấn độ trong thời gian quốc gia này nằm dưới sự đồng trị của ba vị vua (ba vị vua trị vì cùng một lúc). Lấy Bồ-đề Đạo Tràng làm trung tâm, ba vị vua đó là: Dehopala, Tượng Sư (Thầy của loài voi), ở phương Đông; Jauganga, Nhân Sư (Thầy của loài người), ở phương Nam; và Kanauj, Mã Sư (Thầy của loài ngựa), ở phương Tây. Lúc đó có một đại học giả tên là Cilu, người đã thấu triệt được mọi khía cạnh của Phật Pháp, được sinh ra ở Oissa, một trong năm quốc gia thuộc miền đông Ấn độ. Đại học giả Cilu nghiên cứu tất cả kinh điển Phật giáo tại Ratnagiri Vihara, Vikramashila, và Nalanda. Đặc biệt là ông đã theo học tại Ratnagiri Vihara, nơi không bị tàn phá bởi người Thổ Nhĩ Kỳ.
Nói chung, Cilu nhận thức được rằng để đạt được Phật Quả chỉ trong một đời thì ông ta sẽ phải cần đến Chân Ngôn Thừa, và đặc biệt là ông ta sẽ cần đến những chú giải rõ ràng về những giáo pháp chứa đựng trong những Bồ-Tát luận. Biết được rằng những giáo pháp này vẫn còn lưu lại ở Shambhala, và dựa vào sự hướng dẫn của vị bổn tôn của mình, ông ta gia nhập với những thương nhân – những người tìm kiếm báu vật chốn đại dương. Sau khi đã thỏa thuận với các thương nhân - những người đang bắt đầu vượt biển, là sáu tháng sau sẽ hội tụ, phần ai nấy đi.
Cilu xúc tiến theo từng giai trình. Và
cuối cùng, trong lúc đang trèo trên một ngọn núi, ông gặp một người đàn ông.
Người đó hỏi: “Ông đi đâu đây?” Cilu đáp lại rằng: “Tôi đang đến Shambhala để
tìm Giáo Pháp Bồ-Tát.” Người đàn ông đó nói lại: “Đến đó thật là khó vô cùng,
mà nếu ông có thể hiểu được thì ngay tại đây ông cũng có thể nghe được giáo
pháp đó.” Cilu nhận ra được rằng người đàn ông đó là một hiện thân của Đức Văn
Thù Sư Lợi. Ông ta đảnh lễ, cúng dường mạn đà la và thỉnh cầu giáo pháp. Người
đàn ông đó ban truyền tất cả mọi quán đảnh, luận giải mật điển, và những khẩu
truyền sang cho Cilu. Ông ta tóm lấy Cilu, đặt một đóa hoa trên đầu Cilu và ban
phước cho, và nói: “Hãy thực chứng trọn vẹn Giáo Pháp Bồ-Tát.” Cilu ngược đường
trở lại, họp mặt với những thương nhân và trở về Đông Ấn (độ).
Theo truyền thống Dro, Thời Luân được
mang vào Ấn độ bởi đạo sư Kalachakrapada. Một đôi nam nữ thực hành Du già
Yamantaka thực hiện nghi lễ để cầu xin sinh được một đứa con trai theo như cách
được chỉ dạy trong Mật điển Yamantaka, và có được một đứa con trai. Lớn lên,
anh ta được biết là ở phương bắc đích thân các vị Bồ-Tát truyền dạy Phật Pháp,
cho nên anh ta đến nghe. Với năng lực tâm linh của mình, vị quốc vương của xứ
Shambhala nhận biết được động cơ thuần tịnh và nhiệt tâm truy cầu Phật Pháp
thâm sâu của chàng trai trẻ đó. Đức Vua biết rằng nếu chàng trai trẻ đó muốn
đến Shambhala thì sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng, bởi vì sẽ mất đến bốn tháng
mới băng qua hết được một vùng khô cằn không có nước đó. Do vậy, Đức Vua (the
Kalki) sử dụng một hóa thân để gặp chàng trai trẻ bên rìa sa mạc.
Đức Vua hỏi chàng trai, “Con đi đâu và
để làm gì?”. Khi chàng trai trẻ trình bày những ý định của mình thì Đức Vua
đáp: “Đường đi rất là khó. Nhưng nếu con muốn hiểu được những điều này thì
chẳng lẽ ngay tại đây lại không thể nào nghe được hay sao?” Chàng trai trẻ nhận
ra được rằng đây là một hóa thân của Đức Vua và thỉnh cầu giáo pháp. Ngay tại đó,
Đức Vua đã ban truyền quán đảnh, và trong bốn tháng Đức Vua đã truyền dạy cho
chàng trai tất cả những mật điển tối thượng, đặc biệt là ba luận giải về Giáo
Pháp Bồ-Tát. Như một bình chứa đã rót đầy đến miệng, chàng trai trẻ thực chứng
và ghi nhớ tất cả mọi mật điển. Trở về lại Ấn đô, chàng trai trẻ trở nên nổi
tiếng như là một hóa thân của Đức Văn Thù Sư Lợi, và tên của chàng trai trẻ đó
là “Kalachakrapada.”
Hai truyền
thống Ra và Dro cho rằng Thời Luân được truyền bá vào Ấn độ bởi Cilu và
Kalachakrapada. Thời Luân tiếp tục được nghiên cứu và thực hành ở Ấn độ, và rồi
cuối cùng thì truyền sang Tây Tạng. Một lần nữa, truyền thống Ra và Dro là hai
dòng truyền thừa chính mà nhờ đó mới có được pháp tu này.
Truyền thống
Dro bắt đầu từ chuyến viếng thăm đến Tây Tạng của Học Giả người Kashmir tên là
Somanatha. Somanatha đến Tây Tạng trước tiên là tại Kharag và ở lại trong
bộ tộc Ryo. Somanatha nhận 100 ‘lạng’ vàng tiền công và đã dịch sang Tạng ngữ
được một nửa bộ đại luận Thời Luân, Vimalapraha, nhưng trong thời gian đó có
điều gì đó làm cho ông ta bất mãn và không dịch nữa. Ông ta mang vàng và bản
thảo dịch đó đi đến Phan Yul drub. Tại đó, Chung Wa (?) của bộ tộc Zhang
nhận Somanatha làm đạo sư, và Shayrabdrak của bộ tộc Dro đóng vai phiên dịch. Somanatha
và Shayrabdrak đã dịch trọn vẹn bộ Vimalaprabha.
Truyền thống
Dro tiếp tục truyền đến Lama ChöKu Özer. Vị lạt ma này thấu triệt được tất cả
những giáo pháp của bộ tộc Dro, kể cả Thời Luân. Đệ tử của ngài là Lama Galo,
người thấu suốt cả hai truyền thống Dro và Ra và trao truyền lại thành
một dòng truyền thừa đã được kết hợp lại thành một.
Truyền thống Ra
bắt đầu từ Chorab của bộ tộc Ra, người cháu trái của vị dịch giả nổi tiếng là
Ra Dorjedrak, người được sinh ra ở Nyen Ma Mang Yul. Ra Chorab nhớ và hiểu tất
cả giáo pháp của bộ tộc Ra. Rồi ông ta ước muốn được học Thời Luân, cho nên ông
ta đến trung tâm của Nepal, ở đó ông ta hầu hạ Học Giả Samantashri năm năm mười
tháng và năm ngày. Samantashri giải thích tất cả những kinh điển Thời Luân và
ban cho Chorab những quán đảnh và khẩu truyền. Rồi Chorab thỉnh mời Samantashri
đến Tây Tạng, ở đó họ đã thận trọng dịch những mật điển Thời Luân và những luận
giải cho những mật điển này, cùng với những văn kiện phụ lục.
Truyền thống Ra tiếp tục truyền qua con trai và cháu trai của Ra Chorab, và cuối cùng thì truyền đến Lama Galo, như đã nói ở trên. Lama Galo trao truyền cả hai truyền thống Dro và Ra, và dòng truyền thừa của ngài tiếp tục được truyền qua những đạo sư như Buton Rinchendrub và Tsongkhapa. Việc nghiên cứu và thực hành Thời Luân dựa vào truyền thống Ra và Dro tồn tại cả cho đến ngày nay.
Như tất cả các hệ thống mật tông Phật
giáo, căn bản đầu tiên trong việc thực hành mật pháp Thời Luân là sự nhận những
pháp quán đảnh phù hợp. Để cho những pháp quán đảnh được ban và nhận một cách
đúng đắn thì điều cần thiết là cả đạo sư và đệ tử đều phải có những phẩm chất
nhất định. Những phẩm chất của vị đạo sư Chân Ngôn Thừa được trình bày bởi
Losang Chökyi Gyaltsen như sau: “Người đó (đạo sư) cần phải điều khiển được
những hành vi của thân, khẩu và ý. Người đó cần phải rất là thông minh, kiên
nhẫn và không dối lừa. Người đó cần phải biết những chân ngôn (thần chú) và mật
chú, thông hiểu thực tại, và đủ khả năng trước tác và diễn dịch kinh sách.”
Chúng ta rất may là những đạo sư như vậy có thể tìm kiếm được thậm chí ngay cả
thời buổi này.
Người đệ tử cần
phải có kinh nghiệm về ba phương diện chính yếu của con đường Đại Thừa: sự từ
bỏ luân hồi, bồ-đề tâm, và sự hiểu biết về tánh Không. Nếu người đệ tử chưa
thật sự có kinh nghiệm về những điều này, thì người đó ít nhất cũng cần phải có
sự thường xuyên quán chiếu và sùng kính đối với những phương diện này.
Điều quan trọng
nhất của ba phương diện đó là bồ-đề tâm, là động lực tiên quyết để nhận quán
đảnh. Bồ-Tát Di Lặc định nghĩa bồ-đề tâm trong Hiện Quán Trang
Nghiêm Luận (Abhisamayālaṅkāra) rằng: “Bồ-đề tâm là khát vọng đạt được giác ngộ
viên mãn, chân thật vì lợi lạc của kẻ khác.” Khi được áp dụng vào tình huống cá
biệt là nhận những pháp quán đảnh, người đệ tử cần phát khởi bồ-đề tâm theo
phương cách sau đây: “Vì lợi lạc của tất cả chúng sinh, tôi phải đạt được trạng
thái của Thời Luân Shri. Rồi tôi sẽ có khả năng an định tất cả chúng sinh khác
vào trạng thái Thời Luân Shri nữa.” Một đệ tử nên nhận quán đảnh với một
động lực như vậy.
Cái mục đích chung của những pháp quán đảnh mật tông là qua những lễ quán
đảnh đó vị đạo sư làm chín muồi sự tương tục của mối tương tác giữa tâm lý và
vật lý của người đệ tử. Ở đây, “làm chín
muồi” có nghĩa là vấn đề cho phép người đệ tử có quyền thực hành pháp du già
cho tiến trình phát khởi và tiến trình hoàn thiện. Đặc biệt là những lễ quán
đảnh Thời Luân cho phép người đệ tử được quyền thực hành du già Mật Pháp Thời
Luân, và, vào giai đoạn rốt ráo, đạt đến trạng thái Thời Luân Shri.
Có mười một pháp quán đảnh Thời Luân: bảy quán đảnh cho “nhập môn như một đứa bé”, ba quán đảnh “tán dương”, và một quán đảnh “suy tôn tột bậc.” Những đệ tử nào nhứt thời chỉ biết nhắm đến việc có được những thần lực ở thế gian (những năng lực về pháp thuật hay huyền thuật) thì chỉ được ban truyền bảy pháp quán đảnh hạ cấp. Những ai mà chủ yếu là chú tâm vào sự thành tựu Phật Quả siêu việt thì được ban truyền cả mười một pháp quán đảnh.
-
Pháp quán đảnh đầu
tiên trong bảy pháp quán đảnh nhập môn như một đứa bé là pháp quán đảnh nước.
Điều này giống như việc một người mẹ tắm rửa đứa con ngay sau khi nó vừa được
sinh ra.
-
Pháp quán đảnh thứ hai
là quán đảnh ‘suy tôn’ (?), giống như việc kết những chụm tóc cho đứa bé.
-
Thứ ba là quán đảnh
‘băng nơ’, giống như việc xỏ tai đứa bé
và kết đính những đồ trang sức.
-
Thứ tư là quán đảnh
‘chày kim cương và chuông’, giống như một đứa bé cười và nói.
-
Thứ năm là quán đảnh
‘kỷ luật’, giống như sự vui thích của đứa bé đối với năm trần cảnh có thể tạo
ra ham muốn.
-
Thứ sáu là quán đảnh
‘tên’, giống như việc đặt tên cho một đứa bé.
-
Thứ bảy, và cũng là
cuối cùng, quán đảnh nhập môn như một đứa bé là pháp quán đảnh ‘ban truyền mật
ngôn’. Pháp quán đảnh này cho làm cho người đệ tử có được năng lực loại bỏ
những chướng ngại và đạt được những năng lực thần diệu cho sự an định, sự đạt
được những thuận duyên, sự chế ngự và hủy diệt.
Ba pháp quán đảnh ‘tán
dương’ là:
-
Quán đảnh bình - sự
chứng ngộ đại lạc và tánh Không phát sinh từ việc người đệ tử chạm vào ngực của
vị phối ngẫu.
-
Quán đảnh ‘bí mật’-
sự chứng ngộ đại lạc và tánh Không phát
sinh từ việc người đệ tử nếm trải hương vị của bồ-đề tâm.
-
Quán đảnh ‘trí tuệ -
chứng ngộ’ – kinh nghiệm hoan hỉ bẩm sinh phát sinh từ việc người đệ tử và phối
ngẫu cùng tự ra công hợp nhất lại.
Pháp quán đảnh
suy tôn tối thượng còn được gọi là “pháp quán đảnh thứ tư” hay “pháp quán đảnh ngôn tự”. Pháp quán đảnh
đại trí tuệ-chứng ngộ, nói ở trên, làm cho người đệ tự có thể thành tựu Bồ-tát
địa thứ bảy. Rồi, mang tính tượng trưng,
vị đạo sư biểu thị Thân Chứng Ngộ, đó là sự hợp nhất lại của đại lạc bất biến
tối thượng và tính Không mang trong mình nó sự hoàn hảo về mọi phương diện.
Trong lúc nói: “Nó là vậy”, vị đạo sư ban truyền pháp quán đảnh thứ tư cho
người đệ tử. Pháp quán đảnh này cho phép người đệ tử thực hành việc tu tập đạt
đến Giác Ngộ viên mãn trong sắc tướng của
Thời Luân Shri.
Kalachakra
Initiations by His Holiness the Dalai Lama
1.
May
1954
Norbulingka, Lhasa,
Tibet
100,000
2.
April
1956
Norbulingka, Lhasa,
Tibet
100,000
3.
March
1970
Dharamsala, Himachal Pradesh, India
30,000
4.
January
1971
Bylakuppe, Karnataka,
India
10,000
5.
December 1974 Bodhgaya,
Bihar, India
100,000
6.
September 1976 Leh, Ladakh,
India
40,000
7.
July
1981
Madison, Wisconsin, USA
1,500
8.
April
1983
Dirang, Arunachal Pradesh,
India
5,000
9.
August 1983
Tabo,
Himachal Pradesh,
India
10,000
10.
July
1985
Rikon, Switzerland
6,000
11.
December 1985
Bodhgaya, Bihar,
India
200,000
12.
July 1988
Zanskar, Jammu & Kashmir,
India
10,000
13.
July 1989
Los Angeles, California,
USA
3,300
14.
December 1990
Sarnath, Uttar Pradesh,
India
130,000
15.
October 1991
New York, New York, USA
3,000
16.
August
1992
Kalpa, Himachal Pradesh,
India
20,000
17.
April
1993
Gangtok, Sikkim, India
100,000
18.
July 1994
Jispa, Himachal Pradesh,
India
30,000
19.
December 1994
Barcelona,
Spain
3,000
20.
January 1995
Mundgod, Karnataka,
India
50,000
21.
August
1995
Ulaanbaatar,
Mongolia
30,000
22.
June
1996
Tabo, Himachal Pradesh,
India
20,000
23.
September 1996 Sydney,
Australia
3,000
24.
December 1996
Salugara, West Bengal,
India
200,000
25.
August
1999
Bloomington, Indiana, USA
4,000
26.
August 2000
Kyi, Himachal Pradesh,
India
25,000
27.
October 2002
Graz,
Austria
10,000
28.
January 2003
Bodhgaya, Bihar,
India
200,000
29.
April
2004
Toronto, Ontario,
Canada
8,000
30.
January
2006
Amarvati, Andhra Pradesh,
India
100,000
31.
July 2011
Washington, DC,
USA
8,000
32.
January 2012
Bodhgaya, Bihar,
India
200,000
33.
July 2014
Leh (Ladakh), Jammu &
Kashmir, India
150,000
No comments:
Post a Comment