Đức
Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni có những đệ tử với nhiều khả năng khác nhau. Dù đức
Phật thực tế chỉ dạy một con đường duy nhất dẫn đến giác ngộ, nhưng những phần
khác nhau trong giáo lý của Ngài được tiếp nhận thành những thừa (cỗ xe) tùy
theo năng lực của những vị đệ tử. Về căn bản, người ta có thể phân chia tất cả
giáo lý của đức Phật thành hai thừa: Kinh thừa và Mật thừa. Kinh thừa còn được
gọi là “nhân thừa,” bởi vì (tu theo thừa này) người ta tích lũy những cái nhân
để đưa đến giác ngộ. Trong Mật thừa, “thừa của quả,” người ta đồng hóa mình với
kết quả của sự tu hành, hay là những đặc điểm khác nhau của sự giác ngộ.
Tích
lũy những cái nhân đưa đến giác ngộ có nghĩa là vừa tẩy trừ tất cả những cái
nhân gây ra đau khổ vừa tu tập con đường dẫn đến sự chấm dứt mọi khổ đau, đưa đến
hạnh phúc lâu dài. Cái đích trong Tiểu Thừa (Hinayana) là sự giải thoát, bởi vì
cái ảo tưởng quan tâm tới một cái tôi thật sự của một con người cùng với tất cả
những sự ô nhiễm thô lậu đều được tan biến. Trong Đại Thừa (Mahayana) thì cái
đích là sự giác ngộ viên mãn (giác ngộ trọn vẹn). Trên căn bản của ước nguyện
giải thoát tất cả chúng sinh khỏi khổ đau, thậm chí những bức màn vô minh (ngu
si) vi tế nhất (khó phát hiện nhất) cũng được tẩy trừ và trạng thái trí tuệ cao
nhất, trí tuệ của sự toàn giác (thấy biết tất cả), được thành tựu. Trí tuệ cao
nhất này chẳng là cái gì khác ngoài cái bản tánh chân thật của cái tâm của
chúng ta.
Nếu
một ai đó có niềm tin rất là mãnh liệt vào bản tánh chân thật của tâm thì người
đó có thể trực tiếp cùng là một với quả vị đó, với những phẩm chất khác nhau của
sự giác ngộ. Căn cứ trên giáo lý về Phật tánh, cái bản tánh hiện diện ở tất cả
mọi chúng sinh, những phương pháp Mật điển của Kim Cương Lộ (Đường Tu Kim
Cương) mang lại một kết quả rất là mau. Người ta nói về Kim Cương Lộ rằng hành
giả giỏi nhất có thể đạt được giác ngộ chỉ nội trong một kiếp sống. Đây là một
lối tu quá sức nhanh, đặc biệt là khi được so sánh với pháp tu Kinh điển, lối
tu mà sự giác ngộ chỉ có thể đạt được trong rất là nhiều kiếp (aeon – kiếp: mỗi
kiếp này là 4.320.000.000 năm – bốn tỷ ba trăm hai mươi triệu năm). Thế nhưng
không phải hành giả nào cũng có khả năng sử dụng những phương pháp mãnh liệt
như thế. Hấu hết các truyền thống trong Đại Thừa đều dựa trên lối tu Kinh điển.
Chỉ có Phật Giáo Tây Tạng mới sử dụng và trao truyền tất cả những phương pháp Mật
điển mà đức Phật đã ban truyền.
Sự
giác ngộ tự nó biểu hiện trong nhiều hình thức khác nhau. Tất cả những đặc tính
của một vị Phật mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng dạy có thể được tổng kết lại
thành năm dòng dõi Phật, và năm dòng dõi này có thể cô đọng lại một lần nữa
thành Kim Cương Trì (Tạng ngữ là Dorje Chang – Đô giê Chang), sắc tướng Mật điển
của chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chư Phật ở khắp mười phương (Thập Phương
Chư Phật) và cả những Bồ-tát cao cấp mỗi Ngài đều hóa hiện ra một cõi giới bằng
năng lượng thanh tịnh quanh mình, đó là những tịnh thổ riêng của quý Ngài. Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni đã miêu tả cặn kẽ những phẩm chất của những tịnh thổ này.
Ngài đã dạy nhiều phương pháp khác nhau để nối kết với chư Phật và tịnh thổ của
quý Ngài vì, so với những phương pháp khác, pháp tu tịnh độ là một pháp tu đưa
đến giác ngộ tương đối dễ dàng.
Bên
trong phạm vi của năm dòng dõi Phật, đức Phật A-di-đà (Tạng ngữ là Öpame, Anh
ngữ là Limitless Light – Vô Lượng Quang) là vị Phật thuộc về hướng Tây. Ngài
mang danh hiệu này bởi vì ánh sáng phát ra từ thân thể Ngài tràn ngập khắp tất
cả các tịnh thổ của chư Phật khắp mười phương. Trước đây nhiều kiếp (aeon – kiếp:
mỗi kiếp là 4.320.000.000 năm – bốn tỷ ba trăm hai mươi triệu năm), do mối liên
kết với Bồ-tát nguyện của Ngài, Ngài đã lập một nguyện ước hết sức mãnh liệt rằng
Ngài sẽ có khả năng hóa hiện ra được một tịnh thổ kết hợp những phẩm chất của tất
cả các tịnh thổ khác, và tất cả những chúng sinh nào có lập những ước nguyện
tương ứng với tịnh thổ đó thì sẽ được tái sinh về đó một cách dễ dàng. Kết quả
của những nguyện ước mãnh liệt này là Ngài đã hóa hiện được Tịnh Thổ Cực Lạc
(tiếng Phạn là Su-kha-va-ti, tiếng Tạng là Dewachen – Đê-oa-chen) vào lúc Ngài
thành tựu Phật Quả.
Những
giáo lý dạy về những phẩm chất của đức Phật A-di-đà và tịnh thổ của Ngài được
tìm thấy chủ yếu là trong Kinh A Di Đà (Shorter Sukhavativyuha Sutra) và Kinh
Vô Lượng Thọ (Longer Sukhavativyuha Sutra), sự Diễn Tả ngắn và dài về Tịnh Thổ
Đại Lạc (thế kỷ thứ 1 và 2 sau Tây lịch), và trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ
(Amitayurdhyana Sutra), bản Kinh Thiền về đức Phật Vô Lượng Thọ (thế kỷ thứ 3
sau Tây lịch). Ngoài ba Kinh này ra còn có có thêm phương pháp để đạt được sự kết
nối với các tịnh thổ và được tái sinh về đó cũng được tán tụng trong nhiều Kinh
Đại Thừa. Số này bao gồm chừng 200 Kinh và luận giải, chẳng hạn như là Kinh Hoa
Nghiêm (Avatamsaka), Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Surangama), Kinh Pháp Hoa và Kinh
Bát Nhã (Lotus and Prajnaparamita Sutras). Còn có Luận về Sự Thức Tỉnh của Tín
Tâm (Khởi Tín Luận) của ngài A-soa-ghô-sa (Asvaghosha) giải thích rất rõ về
pháp tu này.
Nói
chung, có bốn cái nhân đưa đến một tái sinh về Cực Lạc Tịnh Thổ. Cái nhân đầu
tiên và chính yếu là ước nguyện được tái sinh về đó. Quán tưởng đức Phật và tịnh
thổ của Ngài trong tâm trí mình càng rõ ràng càng tốt là cái nhân thứ hai. Cái
nhân thứ ba là tránh những hành vi bất thiện (tiêu cực) và tu tập những thiện hạnh
(hành vi tích cực). Cuối cùng, cái nhân thứ tư là phát triển Tâm Bồ-đề, Tâm
Thái Giác Ngộ, cái ước muốn đạt được giác ngộ để mang lại lợi ích cho tất cả
chúng sinh trên căn bản của tình yêu thương và lòng bi mẫn. Nhưng trên căn bản
của những giáo lý phổ thông này có nhiều cấp độ tu tập khác nhau mà đức Phật đã
ban truyền phù hợp với những năng lực khác nhau của những học trò của Ngài.
Chính những pháp tu này mà người ta có thể chia ra thành hai phạm trù chính về
Kinh điển và Mật điển, sẽ được diễn giải vắn tắt dưới đây.
Cấp
Độ Kinh Điển
Theo
quan điểm của pháp tu A-di-đà, cấp độ giáo lý Kinh điển là căn bản cho Tịnh Độ Tông,
tông phái Phật giáo lớn nhất trên thế giới với hơn một trăm triệu tín đồ. Pháp
tu chính của tông phái này là tụng niệm danh hiệu của đức Phật A Di Đà cùng với
ba loại tích tập.
Sự
tích tập đầu tiên là niềm tin vào Tây Phương Tịnh Thổ và vào lời hứa của đức Phật
A Di Đà là sẽ cứu vớt tất cả những ai tụng niệm danh hiệu Ngài, cũng như niềm
tin vào tự tánh của chính mình mà về bản chất là cũng giống như tự tánh của
Ngài. Tụng niệm danh hiệu Ngài là tụng niệm bản tánh chân thật của tâm.
Sự
tích tập thứ hai là lập ước nguyện, sự kiên định được tái sinh về Tịnh Thổ,
trong cái tâm thanh tịnh của mình, ngõ hầu được ở vào vị trí cứu vớt chính mình
và người khác (tha nhân) ra khỏi tất cả mọi khổ đau.
Sự
tích tập thứ ba là tu tập, trong tông phái này có nghĩa là người tu chủ yếu phải
nhớ nghĩ đến đức Phật A Di Đà, tụng niệm danh hiệu của đức Phật cho đến khi tâm
mình và tâm của đức Phật A Di Đà được hòa hợp thành một, nghĩa là đạt đến cái
điểm nhứt tâm bất loạn. Rồi thành tựu thiền định và quán chiếu. Bên cạnh việc
nhớ nghĩ đến đức Phật A Di Đà là điều cần thiết phải nghiên cứu những Kinh điển
của Đại Thừa, và thực hành nhiều loại hoạt động tích cực (tạo thiện nghiệp)
khác nhau. Với phương pháp này người ta có thể tạo nên một chiếc cầu đưa đến
Đê-oa-chen (Dewachen), Tịnh Thổ. Nhưng người ta cũng có thể nói rằng ba khía cạnh
này – niềm tin, nguyện ước, và tu tập thực tế là một và về bản chất là giống
nhau, vì cái một đó bao gồm tất cả và tất cả được bao gồm trong một.
Pháp
tu chính yếu trong Tịnh Độ Tông là tụng niệm danh hiệu của đức Phật A Di Đà,
nhưng cũng còn có ba thể thức khác. Trong một thể thức người ta nhớ nghĩ đến đức
Phật bằng cách nhìn vào một bức tượng hoặc hình tướng của đức Phật. Một thể thức
khác là nhớ nghĩ đến đức Phật bằng sự quán tưởng, và một thể thức thứ ba là nhớ
nghĩ đến đức Phật bằng cách thiền về bản tánh thật của tâm. Việc tụng niệm danh
hiệu của một vị Phật có tác dụng giống như là tụng niệm một câu thần chú. Đây
là sự kết nối với Mật tông hay bí mật tông. Các đạo sư Phật giáo của những truyền
thống khác nhau thường bình luận: “Phương pháp tụng niệm danh hiệu một vị Phật
trong đó có đầy đủ cả Thiền (Zen), Luận, Luật (Vinaya), và các truyền thống Mật
Tông.” Lý do là vì khi tụng niệm danh hiệu của đức Phật người ta tự tách mình
ra khỏi những ảo tưởng và tham bám, đó là Thiền (Zen). Những từ thiêng liêng ‘Đức
Phật A Di Đà’ chứa đựng vô số giáo lý siêu phàm, tiềm ẩn bên trong và bật ra từ
những từ đó, đây là Luận Tông. Việc tụng niệm danh hiệu đức Phật làm thanh tịnh
và lắng dịu được ba nghiệp của thân, lời và ý, đây là Luật Tông. Mật Tông sẽ được
giải thích trong phần cấp độ Mật Tông.
Danh
hiệu chính thức của Tịnh Độ Tông ở Tàu là Ching-t’u Tsung, tương tự như Jodo
Shu trong Phật Giáo Nhật Bản. Trước ngài Huệ Viễn (Hui Yüan, 334 - 416) lòng
sùng tín với Đức Phật A Di Đà là một pháp tu tự chọn trong Phật Giáo. Ngài Huệ
Viễn thiết lập pháp tu này thành một phạm vi hoạt động riêng biệt, và phát triển
một tông phái Phật Giáo quanh pháp tu này bằng cách sáng lập Bạch Liên Hội vào
năm 402. Ngài nhấn mạnh thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà là làm cho tất cả chúng
sinh có lòng thành tín được tái sinh về tịnh thổ của Ngài, tập trung vào pháp
tu lặp đi lặp lại cụm từ được gọi là Nien-fo (Nianfo – niệm Phật): “Na-mo A-mi-t’o Fo,”
nghĩa đen là: “Kính lễ Đức Phật A Di Đà.” Pháp tu này cũng được sử dụng trong
phiên bản Tịnh Độ Tông của Nhật, được gọi là Na-mo A-mid-da Bút-su (Nembutsu).
Vị
thiền sư danh tiếng của thế kỷ 16 là Chu Hung đã có nói: “Tịnh Thổ này là Tịnh
Thổ quan trọng nhất, vi tế nhất và kỳ lạ nhất. Đó lại cũng là Tịnh Thổ đơn giản
nhất. Bởi vì nó đơn giản cho nên những người có trí thông minh cao không chú ý
tới. Sự sinh và tử không tách rời khỏi một khoảnh khắc của chánh niệm. Cuối
cùng, tất cả vô số những giáo lý và phương pháp thế gian cũng như xuất thế gian
đều không tách rời khỏi một khoảnh khắc của chánh niệm. Ngay bây giờ đây, hãy lấy
cái giây phút chánh niệm này chú tâm đến Đức Phật, nhớ đến Đức Phật, tụng niệm
danh hiệu của Đức Phật. Thật là thân thiện và gần gũi làm sao! Một năng lượng
thiết yếu thanh tịnh, quá cụ thể và thực tế! Nếu bạn nhìn xuyên qua nơi mà có
cái tâm chánh niệm này khởi lên thì đây là Đức Phật A Di Đà của tự tánh của
chúng ta. Đây là ý nghĩa của vị chưởng môn đến từ phương Tây (ý nghĩa của
Zen).”
Trong
Phật Giáo Thiền (Zen) hành giả phải hiểu chân lý của tự tánh A Di Đà, Tịnh Thổ
Duy Tâm. Như trong Kinh Vimalakirti-Nirdesha có nói: “Khi tâm thanh tịnh, đất
Phật thanh tịnh.” Sự tái sinh vào tịnh thổ đó rốt ráo là sự tái sinh trong cái
tâm thanh tịnh của chúng ta. Cái hình dạng cao cấp này của tịnh thổ được tu tập
bởi những người có những khả năng tâm linh thâm sâu: “Khi cái tâm thanh tịnh
thì đất Phật thanh tịnh … tụng niệm danh hiệu của Đức Phật là tụng niệm cái tâm
đó.” Vì vậy, ở một trình độ cao, Tịnh Thổ và Thiền về bản chất là như nhau.
Cấp
Độ Mật Điển
Ở cấp
độ Mật điển, hoặc cấp độ của Pháp Kim Cương, cũng lại có nhiều hình thức tu tập
khác nhau. Nét tập trung chính yếu của Pháp Kim Cương là sự đồng nhất: hành xử
như Đức Phật cho đến khi chính mình trở thành một vị Phật. Cho dù một hành giả
có tu tập rồi mà không trải qua nhiều điều kiện tiên quyết (những điều kiện phải
có trước) đặc biệt nào, bởi vì Đức Phật A Di Đà đã lập những thệ nguyện quá
mãnh liệt như thế cho tất cả chúng sinh, pháp tu đó cũng thực sự trở nên mãnh
liệt hơn nếu người ta đã tiếp nhận được một sự trao truyền chân chính từ đạo sư
của họ. Sự trao truyền này bao gồm quán đảnh A Di Đà (Tạng ngữ: wang), ‘khẩu
truyền’ hoặc sự cho phép tu tập (Tạng ngữ: lung), và sự giảng giải chính xác
cách thức tu tập đúng đắn (Tạng ngữ: thri).
Mọi
pháp tu Mật điển đều có thể được chia thành hai hoặc ba phần. Hai phần là giai
đoạn phát triển, đây là giai đoạn người ta dựng nên một sự quán tưởng nào đó,
và giai đoạn hoàn thiện của thiền, ở đó người ta làm tan biến những gì đã được
dựng nên và để tâm nghỉ ngơi trong bản tánh của nó. Khi được chia thành ba phần
thì những khía cạnh của pháp tu được gọi là “Thủ Ấn, Thần Chú, và Thiền Chỉ”
trong tiếng Phạn, và việc trì tụng Thần Chú được thêm vào cùng với giai đoạn
phát triển. Phần đầu tiên, Thủ Ấn, việc dựng lên sắc tướng của Đức Phật với đầy
đủ tất cả mọi chi tiết trong tâm hành giả, có nhiệm vụ thanh tịnh những sự ô
nhiễm của thân và đưa đến kết quả là để hóa hiện khía cạnh thanh tịnh của thân
mà đó là thân hóa hiện (hóa thân – Phạn ngữ: Nirmanakaya) của một vị Phật. Sự
trì tụng Thần Chú làm thỏa mãn cái mục đích thanh tịnh những sự ô nhiễm liên
quan đến lời nói và để hóa hiện khía cạnh thanh tịnh của lời nói mà đó là thân
hỷ lạc của một vị Phật (Hỷ Lạc thân - Phạn ngữ: Samboghakaya). Cuối cùng, chức
năng của việc làm tan biến hay là giai đoạn hoàn thiện (định – samadhi) là để
thanh tịnh những sự ô nhiễm liên quan đến tâm và để hóa hiện trạng thái chân thật
hay là pháp thân của một vị Phật (Phạn ngữ: Dharmakaya). Những chức năng này về
căn bản là giống nhau, cho dù là hành giả tu tập theo một thể thức ngắn, trung
bình hay mở rộng của pháp tu A Di Đà. Thể thức dài nhất có thể kéo dài một ngày
hoặc lâu hơn và bao gồm nhiều dạng nghi lễ khác nhau như là cúng dường v.v… Bởi
vì ý nghĩa của những pháp tu này rất là thâm uyên, không thể nào giải thích đầy
đủ tất cả mọi khía cạnh trong bài này được.
Pháp
Kim Cương cũng có một thể thức tu tập rất đặc biệt, một trong những giáo lý
thâm uyên nhất mà đức Phật đã ban truyền. Đây là pháp tu gọi là “Chuyển Di Tâm
Thức” (Tạng ngữ: Phowa) hay là pháp tu chết tỉnh thức. Trong truyền thống Kagyu
của Phật Giáo Tây Tạng, pháp tu này được dạy trong bản văn của Sáu Giáo Lý của
Naropa. Pháp này cũng được dạy như là một phần của Giáo Lý Mật Tông của dòng
Nyingma được ban truyền bởi vị đạo sư Ấn độ vĩ đại Liên Hoa Sanh
(Padmasambhava), người sáng lập chính yếu của Phật Giáo Tây Tạng.
Trong
lúc tu tập pháp Chuyển Di Tâm Thức (Phowa) hành giả học hướng tâm mình về đức
Phật A Di Đà và chuyển tâm thức mình vào Tịnh Thổ Cực Lạc. Vì thế, có thể thiết
lập một sự nối kết chắc chắn với đức Phật A Di Đà và đạt đến được một kinh nghiệm
trực tiếp của trạng thái thanh tịnh và hỷ lạc tột cùng này. Điều này đặc biệt hữu
dụng vào lúc chết. Thay vì bị đẩy qua giai đoạn trung gian (Tạng ngữ: bardo –
trung ấm) đi vào một tái sinh mới trong vòng luân hồi, hành giả đi thẳng vào trạng
thái hỷ lạc cao nhất, từ đó hành giả có thể tự do chọn lựa có trở lại để làm lợi
ích cho chúng sinh hay không. Lúc ở trong trạng thái chính mình là vị Phật,
hành giả tiếp nhận thêm giáo lý và phát triển rất nhanh đến trạng thái giác ngộ
hoàn toàn.
Tuy
nhiên, với thể dạng tu tập này hành giả thậm chí có thể thực chứng được ngày
càng rõ hơn cái bản tánh thanh tịnh của tâm mình, điều này có nghĩa là có thể
hóa hiện tịnh thổ ở ngay trong hiện tại. Trong trường hợp này hành giả không cần
phải gởi năng lượng và sự tỉnh thức của mình đến Tịnh Thổ và hành giả cũng
không cần phải đợi kết quả xảy ra khi tích lũy nhân cho việc đó. Thay vào đó,
hành giả có thể phát triển, trong kiếp sống này, một khả năng khổng lồ để làm lợi
ích cho người khác (tha nhân) và để giải thoát họ khỏi tất cả mọi khổ đau. Đây
là cái ý nghĩa thực sự của pháp tu Phowa. Đó là một món quả vĩ đại, và là một
thể thức tu tập mãnh liệt nhất trong tất cả các thể thức tu tập của pháp tu A
Di Đà.
=-=-=-=-=-=-=-=-=
Nếu có bất kỳ một sự sai trật hay lệch ý nào do việc
chuyển sang Việt ngữ đều là lỗi của Tiểu Tăng Nguyệt Quang Bảo.
Bất kỳ một lượng công đức nào có được, dù nhỏ nhiệm
đến đâu, đều xin hồi hướng về quả vị Giác Ngộ Toàn Hảo và Tối Thượng của tất cả
chúng sinh.
Turners Station, KY
Ngày 12 tháng 05 năm 2018
=-=-=-=-=-=-=-=-=
Nguyên văn Anh ngữ:
The Different Levels of Amitabha Practice
by Manfred Seegers
The historical Buddha
Shakyamuni had disciples of many different capacities. Although he actually
taught one single way to enlightenment, different parts of his teachings were
taken as vehicles according to the capacities of his disciples. Basically, one
can subdivide all of the Buddha's teachings into the two vehicles of Sutra and
Tantra. Sutra is also called "the causal vehicle," because one builds
up the causes for enlightenment. In Tantra, "the vehicle of
fruition," one identifies with the fruit, or the different aspects of
enlightenment.
To build up the causes
for enlightenment means both to remove all causes for suffering and to practice
the way which leads to the cessation of all suffering, to lasting happiness. In
the Smaller Vehicle (Hinayana) the goal is liberation, because the illusion
concerning a true self of the person together with all gross defilements is
dissolved. In the Greater Vehicle (Mahayana) the goal is full enlightenment. On
the basis of the wish to liberate all sentient beings from suffering, even the
subtlest veils of ignorance are removed and the state of highest wisdom, of
complete omniscience, is obtained. This highest wisdom is nothing but the true
nature of our mind.
If one has very strong
confidence in the true nature of the mind one can directly identify with
fruition itself, the different qualities of enlightenment. Based on the
teachings about the Buddha nature which is present in all sentient beings, the
Tantric methods of the Diamond Way bring about a very quick result. It is said
of the Diamond Way that the best practitioner can reach enlightenment within
one single lifetime. This is extremely fast, especially when it is compared to
the Sutra approach where enlightenment can be obtained only within aeons. But
not every practitioner is able to use such powerful methods. Most traditions in
the Mahayana are based on the Sutra approach. Only Tibetan Buddhism uses and
transmits all the Tantric methods that the Buddha has given.
Enlightenment expresses
itself in different forms. All the Buddha aspects that Buddha Shakyamuni taught
can be summarized into the five Buddha families, and these five families can be
condensed again into Vajradhara (Tib.: Dorje Chang), the Tantric form of Buddha
Shakyamuni himself. All the Buddhas of the ten directions and also the high
Bodhisattvas manifest a pure powerfield around themselves, which is their own
pure land. Buddha Shakyamuni described the qualities of these pure lands in
detail. He taught different methods to connect with the Buddhas and their pure
lands because, compared to other methods, the practice of the pure lands is a
relatively easy way to enlightenment.
Within the circle of
the five Buddha families the Buddha Amitabha (Tib.: Öpame, Eng.: Limitless
Light) is the Buddha of the western direction. He bears this name, because the
light radiating from his body pervades all the pure lands of all the Buddhas of
the ten directions. Many aeons ago, in connection with his Bodhisattva promise,
he made extremely strong wishes that he would be able to manifest a pure land
which combines the qualities of all other pure lands, and that all beings who
made corresponding wishes would be reborn there easily. As a result of these
strong wishes he manifested the Pure Land of Great Bliss (Skr.: Sukha-vati,
Tib.: Dewachen) at the time he accomplished Buddhahood.
The teachings on the
qualities of Buddha Amitabha and his pure land are found mainly in the Smaller
and Larger Sukha-vati-Vyu-ha, the shorter or longer Description of the Pure
Land of Great Bliss (1st and 2nd century AD), and in the
Amita-yur-Dhya-na-Su-tra, the Sutra of the Meditation on the Buddha of
Limitless Life (3rd century AD). In addition to these three Sutras the method
of getting in connection with the pure lands and taking rebirth there is
praised in numerous Mahayana Sutras. These include some 200 Sutras and
commentaries, such as the Avatamsaka, Surangama, Lotus and Prajnaparamita
Sutras. Also the Treatise on the Awakening of the Faith by Asvaghosha explains
this practice very clearly.
In general, there are
four causes for a rebirth in the Pure Land of Great Bliss. The first and main
cause is the wish to be reborn there. To visualize the Buddha and his pure land
in one's mind as clearly as possible is the second cause. The third cause is to
avoid negative actions and to practice positive actions. Finally, the fourth
cause is to develop Bodhicitta, the Enlightened Attitude, the wish to obtain
enlightenment for the benefit of all beings on the basis of love and
compassion. But on the basis of these general teachings there exist many
different levels of practice that the Buddha gave in correspondence with the
different capacities of his students. It is these practices that one can divide
into the two main categories of Sutra and Tantra which will be briefly
described below.
The Sutra Level
In terms of the
Amitabha practice, the Sutra level of teachings is the basis for the Pure Land
School, which is the biggest Buddhist school in the world with more than one
hundred million followers. This school's main practice is the recitation of the
name of the Buddha Amitabha together with three kinds of accumulations.
The first accumulation
is confidence in the Western Pure Land and in Buddha Amitabha's promise to
rescue all who recite his name, as well as confidence in one's own self-nature,
which is intrinsically the same as his. To recite the Buddha's name is to
recite the true nature of mind.
The second is to make
wishes, the determination to be reborn in the Pure Land, in one's pure mind, in
order to be in the position to save oneself and others from all sufferings.
The third is to
practice, which in this school means that one mainly has to recollect the Buddha
Amitabha, reciting the Buddha's name until one's mind and that of Buddha
Amitabha are in unison, i.e., to the point of single-mindedness. Stable
meditation and insight are then achieved. Besides recollecting the Buddha
Amitabha it is also necessary to study the Sutras of the Mahayana, and to do
various kinds of positive activities. In this way one can build a bridge to
Dewachen, the Pure Land. But one can also say that these three aspects -
confidence, wishes, and practice are actually one and the same in essence, as
the one contains all and all are contained in one.
The main practice in
the Pure Land School is to recite the name of Amitabha, but there are also
three other forms. In one form one recollects the Buddha by looking at a statue
or form of the Buddha. Another form is to recollect the Buddha by
vizualisation, and a third form is to recollect the Buddha by meditating on the
true nature of mind. The recitation of the name of a Buddha has the same effect
as reciting a mantra. This is the connection to the Tantric or esoteric
schools. Buddhist masters of different traditions often commented, "The
method of reciting the name of a Buddha encompasses the Meditation (Zen), Sutra
Studies, Discipline (Vinaya), and Esoteric Schools." This is because when
reciting the Buddha's name, one rids oneself of all delusions and attachments,
which is Zen. The sacred words 'Amitabha Buddha' contain innumerable sublime
teachings, hidden in and springing forth from those words, which is the Sutra
Studies School. Reciting the Buddha's name purifies and stills the three karmas
of body, speech and mind, which is the Discipline School. The Esoteric School
will be explained in the context of the Tantra level.
The formal title of the
Pure Land School in China is Ching-t'u Tsung, corresponding to the Jodo Shu in
Japanese Buddhism. Devotion to Buddha Amitabha was, prior to Hui Yüan (334 -
416), an optional practice within Buddhism. Hui-yüan established this practice
as an independent activity, and developed a Buddhist school around this
practice by founding the White Lotus Society in the year 402. He emphasized the
Buddha Amitabha's promise to cause all faithful beings to be reborn in his pure
land, focusing on the practice of repeating the phrase known as the Nien-fo:
"Na-mo A-mi-t'o Fo," literally meaning, "Homage to Amitabha
Buddha." This practice is also used in the Japanese version of the Pure
Land School, where it is called Nembutsu (Namo Amida Butsu).
The eminent 16th
century Zen Master Chu Hung has said, "This (Pure Land) is the most primal
and the most subtle and wondrous. It is also the simplest. Because it is
simple, those of high intelligence overlook it. Birth and death are not apart
from a single moment of mindfulness. Consequently, all the myriad worldly and
world-transcending teachings and methods are not apart from a single moment of
mindfulness. Right now, take this moment of mindfulness and be mindful of
Buddha, remember Buddha, recite the Buddha's name. How close and cutting! What
pure essential energy, so solid and real! If you see through where this
mindfulness arises, this is the Amitabha of our inherent nature. This is the
meaning of the patriarch coming from the West (the meaning of Zen)."
In Zen Buddhism one has
to understand the truth of self-nature Amitabha, Mind-Only Pure Land. As the
Vimalakirti-Nirdesha Sutra states: "When mind is pure, the Buddha land is
pure." Rebirth in the pure land is, ultimately, rebirth in our pure mind.
This high level form of pure land is practiced by those of deep spiritual
capacities: "When the mind is pure, the Buddha land is pure ... to recite
the Buddha's name is to recite the mind." Thus, at an advanced level, Pure
Land and Zen are the same in essence.
The Tantra Level
On the Tantra level, or
the level of the Diamond Way, again many different forms of practice exist. The
main focus of the Diamond Way is identification: to behave like the Buddha
until one becomes a Buddha oneself. Even if one can already do the practice
without having many special prerequisites, because the Buddha Amitabha made
such strong wishes for all sentient beings, the practice actually becomes more
powerful if one has received an authentic transmission from one's teacher. This
transmission consists of the Amitabha empowerment (Tib.: wang), the 'oral
transmission' or authorization for the practice (Tib.: lung), and the exact
explanation how to practice in a correct way (Tib.: thri).
Every Tantra practice
can be divided into two or three parts. The two parts are the development phase,
where one builds up a certain visualization, and the completion phase of the
meditation, where one dissolves whatever one has built up and lets the mind
rest in its own nature. When divided into three parts, the aspects of practice
are called "Mudra, Mantra, and Samadhi" in Sanskrit, and the Mantra
recitation is added in connection with the development phase. The first part,
Mudra, building up the form of the Buddha with all details in one's mind,
functions to purify the defilements of the body and as a result of that to
manifest the pure aspect of the body which is the emanation body of a Buddha
(Skr.: Nirmanakaya). The Mantra recitation fulfills the purpose of purifying
the defilements related to speech and to manifest the pure aspect of speech
which is the body of enjoyment of a Buddha (Skr.: Samboghakaya). Finally, the
function of the dissolving or completion phase (samadhi) is to purify the
defilements related to mind and to manifest the state of truth or the body of
phenomena of a Buddha (Skr.: Dharmakaya). These functions are basically the
same, whether one takes a short, medium, or extensive form of Amitabha
practice. The longest forms can last a day or more and include many different
kinds of rituals like offerings, etc. Because the meaning of these practices is
very profound, it is not possible to explain all aspects in this context.
The Diamond Way also
contains a very special form of practice, one of the most profound teachings
the Buddha has given. This is the so-called "Transference of Consciousness"
(Tib.: phowa) or the practice of conscious dying. In the Kagyu tradition of
Tibetan Buddhism it is taught in the context of the Six Teachings of Naropa. It
is also taught as a part of the Tantric Teachings of the Nyingma lineage given
by the great Indian master Padmasambhava who was the main founder of Buddhism
in Tibet.
During Phowa practice
one learns to direct one's mind towards Buddha Amitabha and to transfer one's
consciousness into the Pure Land of Great Bliss. Thus it is possible to
establish a definite connection with the Buddha Amitabha and to arrive at a
direct experience of this extremely pure and joyful state. This is especially
useful at the time of death. Instead of being driven through the intermediate
state (Tib.: bardo) into a new rebirth in the cycle of existence, one goes
directly into the state of highest bliss, from where one can freely choose
whether or not to come back for the benefit of beings. Being in the state of
the Buddha himself one receives further teachings and develops very quickly
towards the state of full enlightenment.
However, through this
kind of practice it is even possible to realize more and more the pure nature
of one's mind, which means to manifest the pure land here and now. In this case
one doesn't need to send one's energy and awareness to the Pure Land and one
needn't wait for the result to come when one builds up the causes. Instead, one
can develop, in this lifetime, a huge capacity to benefit others and to
liberate them from all sufferings. This is the actual meaning of the Phowa
practice. It is a great gift, and the most powerful of all the different forms
of Amitabha practice.
BUDDHISM TODAY, Vol.6, 1999 Source:
http://www.diamondway-buddhism-university.org/en/buddhism/Tibetan_Buddhist_Articles/meditation/levels_amitabha.html
|
Saturday, May 12, 2018
Những Cấp Độ Khác Nhau của Pháp Tu A Di Đà
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment