CÔNG ĐỨC NHIỄU THÁP
Khenpo Sodargye thuyết giảng
Giáo Pháp vô thượng, thâm sâu, vi diệu
Khó mà gặp được trong hàng trăm ngàn triệu đại kiếp,
Giờ đây con thấy và nghe được, con tiếp nhận và gìn giữ,
Và nguyện sẽ thấu triệt cái ý nghĩa thực tế và chân thật và thực tiễn của đức Như Lai.
Khó mà gặp được trong hàng trăm ngàn triệu đại kiếp,
Giờ đây con thấy và nghe được, con tiếp nhận và gìn giữ,
Và nguyện sẽ thấu triệt cái ý nghĩa thực tế và chân thật và thực tiễn của đức Như Lai.
Để mang lại lợi lạc cho tất cả chúng sinh, xin hãy kiên tâm đạt cho bằng được Tâm Bồ đề tối thượng và trân quý.
Hôm nay, tôi sẽ nhân buổi học này mà giới thiệu cái lợi ích của việc nhiễu quanh những ngôi tháp của Nhà Phật. Hầu hết những người theo đạo Phật đều biết về lợi ích lớn lao phát sinh từ việc nhiễu quanh một ngôi tháp. Tuy nhiên, nếu một số chi tiết nào đó không được khai mở cho thì có những người có lẽ vẫn còn mờ tối ở mặt này. Cho nên hôm nay tôi sẽ nói vắn tắt đôi lời với các bạn về chủ đề này.
Ngôi tháp tiêu biểu cho tâm thánh thiện của chư Phật. Về mặt lịch sử, những ngôi tháp đã hiện hữu trước đức Phật Thích Ca Mâu Ni -- trong Bách Nghiệp Kinh (Kinh Trăm Hành Động), có một vị vua tên là Chakpa. Trong kiếp trước, nhà vua đã xây một ngôi tháp xá lợi (một ngôi tháp lưu giữ một xá lợi Phật trong đó) sau khi đức Phật Krakucchandra (Câu Lưu Tôn) nhập niết bàn. Trong thời đại của đức Phật Kassapa (Ca Diếp), có một vị vua là Zhizhi cũng đã xây nhiều ngôi tháp. Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ đời sống thế tục và trở thành một vị tăng, Ngài cũng xây tháp như vậy trước ngôi tháp Brahma Tathagataya. Ngôi Tháp Swayambhunath ở Nepal cũng đã có mặt trước khi có sự xuất hiện của nhiều đức Phật. Về phương diện này, lịch sử của những ngôi tháp khác biệt với lịch sử của những pho tượng Phật và kinh Phật.
Ở Ấn độ, sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn, Vua Asoka xây 84.000 ngôi tháp quanh khắp thế giới; ngài Long Thọ cũng xây một ngôi tháp xá lợi; còn có một ngôi tháp Phật tại Bodh Gaya (Bồ đề Đạo tràng) ở Ấn độ nữa. Có nhiều ngôi tháp Đại Thừa và Tiểu Thừa ở Ấn độ. Khi tháp được truyền vào Tây Tạng, Vua Trisong Detsen cho xây nhiều ngôi tháp, bao gồm cả Tháp Samye ở Ü-Tsang, và về sau tháp được phổ biến đến các vùng Amdo và Kham và dần dần khắp cả Tây Tạng. Ngôi Tháp Qiyun tại Chùa Bạch Mã ở Lạc Dương (Louyang, bên Trung quốc) là một trong những ngôi tháp có sớm nhất trong khu vực của người Hán. Ngôi tháp đó được xây dưới triều đại nhà Hán. Tuy nhiên, có vài người tuyên bố rằng ngôi Chùa Putong có niên đại sớm hơn ngôi tháp đó. Nhưng dù là thế nào đi nữa, sau khi đức Phật nhập niết bàn, tháp đã mọc khắp cả Nam Thiệm Bộ Châu (hoặc đại lục phương nam trong vũ trụ học Phật Giáo), và nhiều người thành tín đã dâng cúng những lễ vật và đỉnh lễ những ngôi tháp này. Đặc biệt là những ngôi tháp xá lợi được Vua Asoka xây là một đại phước điền cho tất cả nhân loại và phi nhân loại, việc bày tỏ lòng sùng kính và dâng cúng lễ vật cho đại phước điền này ban cho người thực hiện những công đức lớn lao.
Khi cần phân loại những ngôi tháp thì có tám đại tháp ở Ấn độ, và ở Tây Tạng thì những ngôi tháp Thời Luân được thờ phụng phổ biến hơn. Theo những nghi lễ của tông phái Phật Giáo mật truyền thì có nhiều dạng tháp khác nhau. Có vài ngôi tháp trong những tàng pháp (termas) của đức Liên Hoa Sanh được dùng cho việc tu tập Giáo Pháp. Theo kinh sách Đại Thừa, chẳng hạn như là Kinh Niết Bàn, những ngôi tháp Phật khác với những ngôi tháp của Thanh Văn và Duyên Giác Phật về phương diện hình dáng và năng lực linh thiêng. Ngôi tháp là hiện thân của tâm đức Phật, theo Kim Cương Bí Mật Tập Hội, “Một ngôi tháp là một cung điện, nơi chư Phật trú ngụ.” Vì vậy, người ta phải coi những ngôi tháp là những cung điện của chư Phật. Trong Bổn Giới Luận của Phật Giáo Nguyên Thủy (Explanation of the Precepts of Theravada Buddhism) có ghi chép rằng “ngôi Tháp là Pháp Thân”. Về phương diện này, theo Kinh Đại Bảo Tích (được biết là "the Maharatnakuta Sutra") thì “Không có sự khác biệt nào giữa công đức của những ai cúng dường trong lúc Ta còn tại thế và của những ai cúng dường một ngôi tháp sau khi Ta nhập niết bàn. Và vì sao? Vì Phật là một hóa hiện thanh tịnh của Pháp Thân, chứ không phải là Hóa Thân hay thể xác (thân vật lý).” Do đó, ngôi tháp là một biểu tượng của Tam Bảo, đó là một sự hiển bày tinh túy của Pháp Thân Phật, và là hiện thân của tâm của đức Phật Thế Tôn.
Có nhiều ngôi tháp nơi mà Phật Giáo chiếm ưu thế. Hãy lấy Thái Lan làm ví dụ, dù quý vị lên chốn núi non hay vào trong thành phố, quý vị cũng có thể nhìn thấy nhiều ngôi tháp dọc đường đi. Ở Tây Tạng cũng vậy, người ta có thể nhìn thấy những ngôi tháp màu trắng khắp mọi nơi. Những ngôi tháp ở Thái Lan thì được mạ vàng và do vậy có màu hoàng kim, còn có lẽ do thực tế là người Tây Tạng chúng tôi nghèo hơn và không có khả năng mua nổi vàng, cho nên ở đây những ngôi tháp màu trắng thì phổ biến hơn. Tôi đã nghe câu chuyện về một viên chức đứng đầu chính phủ đến đây để thanh tra và nói một cách rất là bất mãn rằng: “Tại sao lại có quá nhiều tháp màu trắng? Tôi không thoải mái với điều đó đâu!” (Đây có lẽ là một biểu hiện của nghiệp bất thiện của ông ta. Trong những tình huống bình thường, người ta nên hoan hỷ trước cảnh tượng của nhiều ngôi tháp như vậy.) Người Tây Tạng chúng tôi có một truyền thống – khi một người Tây Tạng nhìn thấy một ngôi tháp, một tu viện hay một nhà sư, người đó sẽ xuống ngựa, bỏ mũ nón ra và chắp hai bàn tay lại. Nếu người đó đang trong lúc vội vã và không thể tiến đến để đỉnh lễ, thì người đó sẽ chắp tay lúc trong xe, trên ngựa hoặc đang trên đường ở một khoảng cách xa. Một hành động như thế tạo ra nhiều công đức lớn lao.
Những lợi lạc cụ thể của việc xây dựng những ngôi tháp đã được giải thích cặn kẽ trong Kinh Lợi Lạc Của Việc Kiến Trúc Tháp. Kinh Thí Dụ liệt kê 10 công đức xây dựng một ngôi tháp, chẳng hạn như là những ai xây những ngôi tháp sẽ không bị tái sinh vào những nơi hẻo lánh, cũng sẽ không bị khổ vì sự đói nghèo cùng cực, cũng sẽ chẳng mang những cái nhìn sai lầm (tà kiến) chống trái với Phật Giáo, v.v… Kinh Kiến Trúc Tháp và Gia Tăng Thọ Mạng cũng giải thích cặn kẽ về bảy sự lợi lạc như là những ai xây dựng một ngôi tháp thì sẽ không bị chết đột ngột hoặc bất đắc kỳ tử. Do vậy, theo kinh văn Đại Thừa thì chúng ta nên xây dựng tháp nếu điều kiện cho phép và nếu chúng ta có khả năng. Ở Tây Tạng, nhiều người từ những tu viện hay làng mạc đều có quyết tâm xây dựng tháp. Có một năm, His Holiness Jigme Phuntsok đã huy động tất cả đệ tử để xây dựng tháp ở khắp nơi, công việc được khắp nơi hưởng ứng và kết quả là kiến trúc được hơn 10.000 ngôi tháp (tôi đã quên con số chính xác, nhưng dù gì thì nó cũng là một con số rất lớn.)
Nếu so sánh thì ở khu vực người Hán ngày nay, người ta đang xây dựng ít tháp hơn. Nếu trong tương lai quý vị có khả năng thì hãy nên xây một ngôi tháp ở đâu đó, đặng mà những ai nhìn thấy ngôi tháp, đi nhiễu quanh và lễ lạy thì cuối cùng sẽ đạt được giác ngộ. Đức Phật Thế Tôn đã truyền dạy cho chúng ta vô số lợi lạc của việc xây dựng tháp trong Kinh Vô Cấu Tịnh Quang Đại Đà Ra Ni (Vimala Suddha Prabhasa Mahadharani Sutra) và có nói rằng “những ai đã phạm phải năm ác hạnh dẫn đến địa ngục A-tỳ (vô gián), nếu đi ngang qua cái bóng của một ngôi tháp, hoặc nhìn thấy được một ngôi tháp từ xa, hoặc nghe được những tiếng chuông của một ngôi tháp, hoặc nghe đến tên của một ngôi tháp, sẽ được thanh tịnh năm tội cực ác đó, hoặc bất kỳ một nghiệp chướng nào khác.” Vì vậy, những lợi lạc của việc xây dựng những ngôi tháp thì không thể nghĩ bàn.
Dĩ nhiên, sự kiến trúc tháp được áp dụng một tiêu chuẩn khá khắc khe. Nếu vượt ra ngoài khả năng của mình thì mua một ngôi tháp nhỏ là hợp lý, điều này tương đối dễ dàng hơn. Đức Phật đã nói về nhiều dạng tháp trong Kinh Lợi Lạc Của Việc Kiến Trúc Tháp và bảo chúng ta rằng cho dù một ngôi tháp có kích thước của một chiếc lá cây táo, hoặc mỏng như một cây kim, nó vẫn có khả năng mang lại những công đức bao la. Những ngôi tháp nhỏ như thế được bày bán trong nhiều cửa tiệm bán pháp cụ Phật Giáo. (Cửa tiệm chúng ta sẽ phát tài chứ nhỉ? Quý vị có bán tháp không? Không có hả? Quá tệ … thôi bỏ qua.) Thường thì những xá lợi và những vật thể thuộc về tôn giáo được cho vào trong các ngôi tháp, nếu quý vị không có những câu thần chú để đặt vào bên trong ngôi tháp, quý vị có thể đặt vào trong ngôi tháp bốn bài kệ rút ra từ Kinh, điều đó cũng được coi như là một dạng xá lợi. Rồi đặt ngôi tháp đó lên bàn thờ, và ngôi tháp trở thành một hiện thân của Tam Bảo. Nếu một người thật sự không có khả năng để xây một ngôi tháp thì hãy cúng dường người khác những ngôi tháp mi ni làm bằng vàng, bạc, gỗ, đá hoặc thủy tinh, đặt xá lợi vào bên trong, và tạo nên một mối liên kết nghiệp nhân với người đó. Một hành động như vậy cũng có được nhiều lợi lạc lớn lao.
Ngôi tháp xây trên một ngọn núi vùng Turners Station, bang Kentucky
và ngài Drupon Rinpoche -- vị Lạt-ma Tây Tạng xây ngôi tháp này.
Chẳng cần phải nói đến những ngôi tháp với những kích thước theo tiêu chuẩn, ngay cả những ngôi tháp mà trẻ con trong lúc vừa chơi vừa tạo ra để làm trò chơi cũng có thể mang lại những công đức khổng lồ. Trong Kinh Pháp Hoa có nói: “Những đứa bé chồng những đụn cát lên với nhau ở nơi này nơi kia tạo thành những ngôi tháp, những đứa bé đã làm những sự việc như thế tất cả đều đã đạt giác ngộ.” Có khi những đứa bé vui chơi, nếu chúng có những thiện căn nào đó thì chúng nó sẽ tạo nên một mối liên kết tốt đẹp với những pho tượng hoặc ngôi tháp của chư Phật, điều này sẽ trở thành cái nhân cho cái quả cuối cùng là sự giác ngộ của chúng nó. Điều này gợi nhắc lại cho tôi về thời thơ ấu, tôi nghĩ là tôi có cái nghiệp khá tốt. Khi tôi đang chơi với vài đứa trẻ hàng xóm, mặc dù chúng tôi sống trong một thung lủng, nơi đó không có cát, chúng tôi thường giả bộ cho một vài viên đá sắc nhọn là những ngôi tháp, và rắc hoa trước những ngôi tháp đó. Có khi tôi tìm thấy những mảnh xương trắng nhỏ, trong đó có vài mảnh có mũi nhọn, vài mảnh thì tròn, và tôi giả bộ cho những mảnh đó là những ngôi tháp hoặc những pho tượng, và lễ lạy và cúng dường những vật thể đó. Lúc đó tôi chưa đọc Kinh Pháp Hoa nhưng tôi đã có nhiều trải nghiệm tương tự như vậy. Tôi nghĩ là những điều đó có thể dần dần trở thành cái nhân đưa đến giác ngộ.
Việc tu sửa những ngôi tháp cũng tạo ra công đức lớn lao nữa, như được ghi chép trong Đại Chúng Luật, “Cúng dường bố thí hàng ngàn ký lô vàng thật cũng không nhiều công đức bằng tu sửa một ngôi tháp bằng một nắm bùn trong cái tâm rối bời.” Công đức tích lủy được từ việc đem cho hàng ngàn ký vàng ròng cho người nghèo không to lớn bằng công đức lấy một cục bùn trét vào chỗ nứt trên một ngôi tháp. Cho nên, năm ngoái tôi và nhiều vị bạn đạo đã tu sửa những ngôi tháp bên cạnh cổng của Học viện. Tất cả chúng tôi đều biết về những lợi lạc vĩ đại mà công việc đó mang lại.
Trong lúc xây dựng tháp, nên làm theo những bản hướng dẫn thì thích hợp hơn. Tuy nhiên, vẫn có công đức lớn lao cho dù người ta không làm theo những chỉ dẫn đó. Vào thời đức Phật, vị Tôn giả Sumanas xây dựng và cầu nguyện trước một ngôi tháp ở một nơi hẻo lánh, và trong ngôi tháp ngài đặt ít tóc và móng của đức Thế Tôn. Vào lúc đó, năm trăm vị A-la-hán ngụ ở đó, và xem ngôi tháp đó như là đức Phật thật sự, và đi nhiễu quanh ngôi tháp và lễ lạy ngôi tháp vào buổi sáng và buổi tối. Vùng núi này còn có 500 con khỉ nâu sống ở đó nữa, sau khi nhìn ngắm những nghi lễ thành kính của các vị A-la-hán mỗi ngày, những con khỉ này nặn ra một ngôi tháp bằng bùn và cũng sáng và tối lễ lạy ngôi tháp đó nữa. Về sau, vùng núi đó bị ngập lụt, những con khỉ đó không thể thoát được và tất cả đều bị chết đuối. Những con khỉ nâu đó được tái sinh thành năm trăm vị trời ở cõi trời, với thiên nhãn của mình đã nhìn thấy được rằng cái nhân khiến cho được tái sinh ở cõi trời của họ là nhờ ở việc tạo dựng và thờ cúng ngôi tháp được làm bằng bùn đó trong kiếp trước của họ. Từ lòng biết ơn, họ đi xuống cõi người và nhiễu quanh hài cốt của những con khỉ nâu đó bảy vòng, rắc hoa lên những hài cốt đó và thực hiện những lễ cúng dường. Về sau họ nghe được Giáo Pháp từ đức Phật Thế Tôn và đạt được quả vị tôn quý.
Nói chung, một pho tượng hay một ngôi tháp phải được kiến trúc theo những chỉ dẫn phổ quát. Tuy nhiên, vì những ngôi tháp là những vật thể thiêng liêng, dù là xây dựng một ngôi tháp không theo những tiêu chuẩn cũng có thể là một nguồn công đức tinh khiết. Hãy thử tưởng tượng xem, những ngôi tháp được xây bởi những đứa trẻ trong Kinh Pháp Hoa thì dứt khoát là không có thước tấc gì cả, và tất cả mọi loại hình dáng không có theo quy cách nào cả; những con khỉ nâu mà chúng ta vừa nói đến, cho dù có thiện nghệ đến đâu thì những ngôi tháp mà những con khỉ đó xây nên cũng không thể nào so sánh với những ngôi tháp được xây bởi con người. Hơn thế nữa, những đứa trẻ có một tinh thần vui chơi, còn những con khỉ nâu thì chỉ có ý định là bắt chước làm theo thôi, và trong lúc làm như vậy, những con khỉ nâu không có ý định đạt được giải thoát, chúng cũng chẳng tôn kính ngôi tháp như là một vật thể thiêng liêng. Tuy nhiên, do bởi thực tế rằng đối tượng của hành động của chúng là một ngôi tháp, cho nên dù gì thì những công đức to lớn cũng có được. Bởi vậy, chúng ta không nên vì bất cẩn mà coi khinh một giáo thuyết về luật nhân quả thâm diệu như vậy.
Một khi ngôi tháp đã được xây cất, những lợi lạc của việc nhiễu quanh ngôi tháp đó là gì?
Theo Kệ Nhiễu Chánh Điện (Chaitya Pradaksina Gatha), “tất cả chư thiên và long thần, dạ xoa cùng ma quỷ, sẽ tiến đến và cúng dường, nếu các vị đi vòng quanh ngôi tháp theo chiều kim đồng hồ.” Chư thiên và chư long thần, dạ xoa và ma quỷ sẽ đến sát bên quý vị và cúng dường quý vị, và họ sẽ không có ý định làm hại quý vị. Nhiều sự lợi lạc khác của việc đi nhiễu quanh tháp được nói đến trong kinh, nếu có thời gian thì mong quý vị hãy đọc lấy.
Khi nhiễu quanh một ngôi tháp quý vị phải chú ý, phải đi nhiễu theo chiều kim đồng hồ. Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sutra hay the Flower Garland Sutra) cũng có nói: “hãy đi nhiễu ba lần theo chiều kim đồng hồ”. Bắt buộc là phải đi nhiễu theo chiều kim đồng hồ, nếu quý vị đi ngược lại thì không những quý vị sẽ không có được bất kỳ công đức nào mà sẽ còn tạo ra ác nghiệp do đi như vậy nữa. Khi chúng tôi đến Ngũ Đài Sơn, chúng tôi đi nhiễu quanh ngôi tháp trắng suốt cả ngày. Lúc đó chúng tôi thấy nhiều hành giả Phật Giáo và có cả vài nhà sư đang đi nhiễu ngược chiều kim đồng hồ. Trong chúng tôi có một vị lạt ma tên là Yangyi. Nhiệm vụ thường nhật của ngài là không để cho họ đi như vậy. Một lần ngài nắm lấy bàn tay một cô gái và bảo cô không được đi nhiễu kiểu này, nhưng ngài không nói được tiếng Tàu, cho nên ngài chỉ kéo bàn tay cô ta và làm cho cô ta sợ, cô ta cứ la hét “không được lôi tôi nữa, không được lôi tôi nữa!” Thực ra, vị lạt ma này có một ý định rất thanh tịnh – ngài đã xây dựng nhiều ngôi tháp ở vùng Daofu, và thường in cờ cầu nguyện. Lúc đó ngài đang ở độ tuổi 60 hoặc 70 và không quen với những tập tục của người Tàu thế tục, ngài chỉ đơn thuần là đứng đó và yêu cầu người ta không đi nhiễu trái chiều mà thôi. Vì vậy, tháp phải được nhiễu theo chiều kim đồng hồ, nếu không thì hậu quả sẽ khủng khiếp, và điểm này cũng được chỉ rõ trong nhiều kinh điển Phật Giáo Trung quốc.
Những công đức to lớn tạo ra từ việc đi nhiễu theo chiều kim đồng hồ. Trong một bản kinh Phật Giáo có viết rằng ngày xưa có một nhóm thương gia ra khơi để tìm châu báu ngoài biển, và trên đường họ gặp phải một con cá voi. Khi họ sắp sửa bị nuốt, họ gọi lớn danh hiệu của đức Phật. Con cá voi ngậm miệng lại và chết. Con cá voi này về sau được tái sinh làm người, tên là Xá Lợi Tử, người này đến tu viện và trở thành một tăng sĩ khi còn rất trẻ và cuối cùng đạt được quả vị A-la-hán.
Cái nhân khiến cho ông ta đạt được quả vị thiêng liêng (thánh quả) đó là gì?
Khi biết ra thì là trong kiếp trước ông ta là một con ruồi, và bị hấp dẫn bởi mùi phân bò gần một ngôi tháp. May mắn thay, con ruồi đó bay quanh ngôi tháp một vòng. Một chuyện khác thì nói rằng con ruồi đó đậu lại trên đống phân bò bị ngập lụt và trôi bồng bềnh quanh ngôi tháp. Với công đức của hành động này, ông ta đạt được quả vị tôn quý vào thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Trường hợp quý vị không thể tìm được một ngôi tháp, một vài tu viện có những hòm đựng hài cốt của những vị Pháp sư, nếu vị đạo sư này là một vị chân sư đã thành tựu có công đức to lớn, thì quý vị cũng phải đi nhiễu quanh cái hòm đựng hài cốt của ngài nữa. (Sau khi His Holiness Jigme Phuntsok nhập niết bàn, không có hòm hài cốt nào được xây dựng, nhưng một ngôi tháp được kiến trúc tại nơi mà His Holiness đã sinh ra, và mỗi lần chúng tôi đến đó, chúng tôi đều đỉnh lễ ngôi tháp đó.) Trường hợp không có bất kỳ một hòm hài cốt nào của một vị đạo sư lỗi lạc, thì quý vị có thể đi nhiễu quanh những pho tượng Phật trong tu viện. Trong các tu viện Tây Tạng, tượng Phật thường được gắn vào bức tường sau, không chừa chỗ nào để đi bộ quanh pho tượng bên trong chánh điện. Nhưng trong hầu hết các ngôi chùa Trung quốc, một khoảng trống được chừa lại cho người ta đi qua phía sau pho tượng. Đi bộ quanh tượng của đức Phật làm cho có thể vun trồng được những công đức to lớn. Trong Kinh Phật Thuyết Giảng Cho Vua Prasenajit (Vua Ba Tư Nặc), có nói rằng “nếu với một cái tâm thanh tịnh mà một người đi nhiễu quanh một ngôi tháp hoặc một hình ảnh của đức Phật, thì trong kiếp kế tiếp, ngay cả những kẻ thù cũng sẽ kính trọng người này, và người này sẽ có phước và đức, và trở thành một chiếc bình chứa Giáo Pháp Đại Thừa.” Nếu một ai đó đi nhiễu quanh một ngôi tháp hoặc một hình ảnh của đức Phật, thì ma quỷ, những người theo dị giáo, những chướng ngại hoặc kẻ thù gây cản trở con đường tu tập Giáo Pháp của người đó sẽ biến mất, và người đó sẽ có tất cả mọi phước và đức, nhờ đó mà trở thành một chiếc bình chứa Giáo Pháp Đại Thừa. Thoáng qua thì một vòng quanh một ngôi tháp trông chẳng có gì là to tát, nhưng thật ra phước đức rất là lớn. Trong quá khứ, khi người ta đến viếng ngài Patrul Rinpoche, ngài thường luôn nói rằng: “Thật số tôi là vậy! Quý vị chẳng để yên cho một lão già. Tại sao quý vị không đi nhiễu ngôi tháp xá lợi của Thầy tôi, Jigme Gyalwai Nyugu? Quanh quẩn với cái xác chết của tôi thì tốt đẹp được cái gì?” Trong Những Lời của Đạo Sư Toàn Hảo Của Tôi, ngài Patrul Rinpoche nói về những kiếp sống trước của thí chủ Huajie và bảy vị tăng đầu tiên của Tây Tạng. Khi vị Thí chủ Huajie trở thành một nhà sư ở tuổi 100, nhiều vị A-la-hán không biết rằng ông ta có hạt giống để đạt được giác ngộ ngay tức thì. Chỉ có chính đức Phật mới biết được. Thực ra, vào thời đức Phật Kassapa (Ca Diếp), ông ta là một con heo chạy quanh một ngôi tháp khi bị một con chó rượt đuổi. Với hạt giống của bản chất tốt đẹp này, ông ta rốt cuộc đã được quả vị niết bàn thiêng liêng. Bảy vị tăng là bảy con sâu trên cây, bị rớt xuống nước, trong đó có một ngôi tháp cổ. Những con sâu đó bị giòng nước cuốn đi và vòng quanh ngôi tháp theo chiều kim đồng hồ bảy lần, và điều này đã trở thành hạt giống giác ngộ của họ.
Vậy, nếu có cơ hội thì quý vị nên đưa cha mẹ quý vị đi nhiễu quanh một bức tượng Phật hoặc một ngôi tháp, những ai tạo một mối gắn kết thiện phúc trong sự giảng dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì sẽ được giác ngộ trong sự giảng dạy của đức Phật Di Lạc. Nếu họ không tin Phật Giáo, quý vị có thể lừa họ vào đi bộ quanh ngôi tháp. Nếu đó là một em bé, thì dụ dỗ bằng cách cho kẹo và bảo em bé đi theo quý vị quanh ngôi tháp. Nếu họ là cha mẹ của quý vị, thì quý vị có thể nói rằng: “Cha mẹ có muốn đi du lịch một chuyến không? Con biết một chỗ tốt.” Rồi thì từ từ đưa họ đi nhiễu quanh một ngôi tháp – “Xong, mình đi chơi xong rồi đó!”
Nhìn bên ngoài thì việc đi nhiễu một lần quanh một ngôi tháp không có vẻ gì là to tát lắm, nhưng thực ra thì chỉ có đức Phật mới biết phước đức của việc làm đó. Trong Kinh Hiền Ngu (Damamukl Nidana Sutra) có ghi chép rằng: “Đừng cho những việc thiện đức nhỏ là không đáng để chú ý. Kể cả những giọt nước nhỏ cũng có thể tích tụ lại và làm đầy một bể chứa lớn.” Như một cổ ngữ có nói: một toà tháp cao được xây dựng lên bằng cát, một ngọn núi được chất chồng lên bởi bụi, biển cả thì từ những con sông nhập lại, và công đức thì được tích luỹ từ thiện hạnh. Công đức cần phải được tích luỹ từng chút một; không thể có chuyện ngay tức thì có được tất cả mọi yếu tố cần thiết phải có để thành Phật được. Ngay cả việc học cũng bắt đầu từ mẫu giáo, rồi từ từ tiến đến làm giám thị cho những học sinh bậc tiến sĩ. Để có được một cái bằng tiến sĩ mà lại không hoàn thành dẫu là lớp mẫu giáo thì cũng là điều hơi khó. Dù rằng chúng ta phải tin tưởng nơi đức Như Lai của chúng ta, chúng ta không được phép quá kiêu ngạo, và những thiện hạnh nhỏ nhoi cũng vẫn cần phải được thực hiện. Lưu Bị (Liu Bei) từ thời Tam Quốc, lúc đang nằm trên tử sàng có nói với người con trai của ông ta là Liu Chan rằng: “Đừng có bỏ lơ một hành động nhân từ vì cái tầm vóc nhỏ bé của nó, cũng đừng có phạm phải một hành động ác nghiệt vì tầm vóc nhỏ bé của nó.”
Vì vậy, bất kể là quý vị thấy được ở đâu đó một ngôi chùa hay một tu viện Phật Giáo, một hình ảnh của đức Phật hoặc một ngôi tháp, thì chí ít cũng phải đi nhiễu quanh ba vòng nếu quý vị có nhiều năng lượng hoặc thời gian để đi thêm. Đôi khi có một vài nhóm khảo sát hoặc những nhóm người làm việc với nhau viếng thăm một Học viện, trong số những người này, những người có những thiện căn thì đề nghị rằng họ không những nên ngắm nhìn ngôi tháp Mạng Lưới Đại Huyễn Ảo (Đại Huyễn Võng) Man-đa-la, mà còn nên đi vòng quanh chiếc mạn đà la đó và nhìn xem cảm giác nó tạo ra như thế nào. Rồi họ chụp ảnh chỗ này chỗ kia, và vô tình đi nhiễu quanh ngôi tháp. Nếu ngay cả những người không có tôn giáo mà còn như vậy, thì chúng ta là những tín đồ Phật Giáo, chúng ta nên luôn coi trọng vấn đề này hơn thế nữa. Khi chúng ta có thời gian, chúng ta nên tụng vài câu thần chú, lễ lạy hoặc đi nhiễu quanh một pho tượng đức Phật hoặc một ngôi chùa. Nếu không có gì cả, thì chúng ta nên xem những cái tháp mà chúng ta mua sắm được là một vật thể đã được thanh tẩy và đi nhiễu quanh cái tháp đó.
Việc đi nhiễu như thế được nhiều đạo sư Ấn độ xem rất là quan trọng. Khi Đạo sư Atisha đến Tây Tạng, ngài Dromtonpa cùng các đệ tử hỏi ngài: “Tại sao ngài lại coi việc đi nhiễu quanh các ngôi tháp lại quan trọng to lớn đến như thế, trái ngược với tất cả những đức hạnh khác?” Đạo sư Atisha bảo họ rằng: “Trong tất cả mọi hành động tương đối có phước đức, không có hành động nào mang lại nhiều phước đức hơn việc đi nhiễu quanh các ngôi tháp, bởi vì đó là sự tích lũy thiện nghiệp về thân, khẩu và ý. Ở Ấn độ, có nhiều người đạt được giác ngộ nhờ đi nhiễu quanh các thành phố hoặc các ngôi đền thiêng liêng, và có một vài người hồi phục khỏi bệnh tật hoặc đạt được giác ngộ bằng cách đi nhiễu quanh hình ảnh thiêng liêng của đức Quán Thế Ấm … Do vậy, tất cả mọi người nên chuyên cần đi nhiễu!” Sau sự kiện này, Lama Dromtonpa đã làm theo những gì đã được chỉ bảo và đi nhiễu mỗi ngày. Vào những năm cuối đời, khi đôi chân của ngài không còn nhanh nhẹn như ngày nào nữa, người ta nói rằng ngài đi nhiễu với sự trợ giúp của một cỗ xe (có lẽ tương tự như một chiếc ghế có bánh xe). Ngài vẫn một mực giữ việc đi nhiễu ba lần cho đến ngày ngài qua đời. Khi Đạo sư Atisha đang đi nhiễu ngôi tháp ở Bồ đề Đạo tràng (Bodh Gaya), thỉnh thoảng ngài nhận được những lời tiên tri từ đức Tara, đôi khi ngài nhận được những lời tiên tri từ những vị Dakini khác. Từ những câu chuyện này, chúng ta có thể nói rằng ngài Atisha đã coi sự đi nhiễu rất là quan trọng. Ba Anh Em Tôn Quý của dòng truyền thừa Kadampa đã đi nhiễu quanh những ngôi tháp hoặc cả những giảng đường nữa. Theo những bản tiểu sử xác thực, những đại sư Patrul Rinpoche, Mipham Rinpoche và Đạo Sư Tsongkhapa cũng không tiếc công sức trong việc đi nhiễu.
Ở Tây Tạng, đi nhiễu quanh một ngôi tháp là một việc làm rất là thích thú. Về mặt này, người Tây Tạng có nhiều lợi điểm hơn so với nhiều sắc dân khác. Hãy lấy ngôi đại tháp màu trắng của Ngũ Đài Sơn làm ví dụ, đó là một ngôi tháp linh thiêng của khu vực người Hán, do vậy mà bình thường thì người Hán đáng ra là số đông ở đó, nhưng người ta nói rằng ngày nay hầu hết những người đi nhiễu quanh ngôi tháp đó lại là người Tây Tạng. Khi nước Trung quốc chưa mở cửa, chỉ có người Tây Tạng phía trước ngôi đại Tháp Boudhanath (Jyarung Khasyor Stupa) ở Nepal, bên cạnh những người Tây Tạng thì rất ít người Nepal, người Ấn độ hoặc bất kỳ một dân tộc nào khác đi vòng quanh ngôi tháp đó. Tại Bồ đề Đạo tràng người ta cũng có thể nhận thấy tình hình tương tự như vậy nữa. Đặc biệt là ở Thái Lan, nhiều người không biết gì về việc đi nhiễu tháp cả, một vài người thậm chí còn đi ngược chiều kim đồng hồ nữa. Lúc đó tôi thực sự không thể chịu đựng nỗi cái thực tế rằng ngay cả những phước đức này cũng được ghi chép trong những bản kinh Phật mà lại chẳng được chú tâm đến ở một nơi mà Phật Giáo hết sức là thịnh hành như vậy. Thậm chí tôi phải ghi lại sự kiện này trong nhật ký du hành của tôi.
Tôi hy vọng rằng nhờ công đức của bài học này, hễ khi nào quý vị bắt gặp một ngôi tháp Phật thì quý vị sẽ không những chỉ ngắm nhìn mà còn đi nhiễu quanh ít nhất cũng phải ba lần, bất kể là thời khóa biểu của quý vị có bận rộn đến đâu chăng nữa cũng vậy.
Khi His Holiness Jigme Phuntsok đang đi nhiễu quanh những ngọn núi thiêng, bất chấp là thời khóa biểu có chằng chịt đến cỡ nào chăng nữa thì ngài cũng đi ít nhất là ba vòng. Khi quý vị ngồi trong xe lái ngang qua một ngôi tháp, quý vị cũng nên chạy quanh ngôi tháp một vòng. Trên đường tôi đến Barkam, có một ngôi tháp gần Jinchuan được His Holiness Jigme Phuntsok dâng cúng. Mỗi lần ngang qua ngôi tháp đó tôi đều lái xe quanh ngôi tháp một vòng. Tôi hy vọng rằng bất kỳ khi nào quý vị nhìn thấy một ngôi tháp quý vị cũng sẽ tập một thói quen đi nhiễu quanh tháp. Nếu quý vị đang trên một chuyến hành hương đến một tháp Phật, quý vị nên chuyên cần đi nhiễu.
Thực ra khu vực của người Hán cũng có một lịch sử về đi nhiễu quanh tháp. Vào triều đại nhà Đường, có một vị tăng cao tuổi hạ tên là Đạo sư Zilin, khi ngài muốn từ bỏ đời sống thế tục ngài đã đương đầu với nhiều chướng ngại, cha mẹ ngài kịch liệt phản đối việc đó, cho nên ngài phải trốn vào Tu viện Guang’ai ở Đông Kinh và trở thành một vị tăng ở đó. Sau đó nhiều năm, ngài trở lại quê nhà chỉ còn nhận ra mẹ ngài đã qua đời và cha thì bị mù. Trong đau buồn, ngài đi đến Chùa Yue để tụng Kinh Pháp Hoa nhằm để tìm ra mẹ ngài đã tái sinh vào cõi giới nào. Đêm hôm đó, vị Đông Đỉnh Vương nói với ngài trong mộng rằng mẹ ngài đã tái sinh vào một số phận xấu, nhưng nếu ngài hành hương đến ngôi tháp xá lợi của Tu Viện A Dục Vương thì mẹ ngài sẽ có một cơ hội được thoát ra. Rồi ngài khởi hành chuyến hành hương ngay lập tức và lễ lạy ở đó trong nước mắt và khổ đau, và khi ngài lạy đến bốn chục nghìn lần, ngài nhìn thấy mẹ ngài trên bầu trời bằng chính đôi mắt của ngài, bảo ngài rằng bà đã rời khỏi cõi xấu để về cõi trời rồi.
Thêm vào đó, vào triều đại nhà Thanh, có một “vị tăng sờ đầu” của Tu viện Baotong ở Wuchang có khả năng chữa lành bất kỳ bệnh nặng hay nhẹ nào bằng cái sờ nhẹ của bàn tay ngài. Tại sao bàn tay của ngài lại có cái năng lực chữa lành bệnh kỳ diệu như thế? Người ta nói rằng có một ngôi chùa trong vu viện này, ngày nào ngài cũng đi nhiễu quanh, sờ tay vào những viên gạch của ngôi chùa đó, tụng thầm Chú Đại Bi. Vì ngài không ngừng đi nhiễu trong mười năm và không hề nghỉ dù chỉ một ngày, bàn tay ngài đạt được năng lực thần diệu.
Thời Đường Triều hay Thanh Triều cũng vậy, có nhiều trường hợp về những đại sư đi nhiễu quanh tháp Phật. Giờ đây chúng ta cũng nên ủng hộ việc làm này, đặc biệt là đối với những hành giả Phật Giáo tại gia. Họ nên đi nhiễu tượng Phật và tháp Phật ở các tu viện thường xuyên hơn. Ngày nay có nhiều người lễ lạy hoặc thắp nhang trong các tu viện, nhưng rất ít trong số đó đi nhiễu. Một hôm chúng tôi đi đỉnh lễ cái thân xác (nhục thể) của ngài Lục Tổ. Lúc đó chúng tôi đi nhiễu nhiều lần, nhưng vẫn có nhiều người không đến đi nhiễu. Tôi chẳng biết làm gì khác ngoài việc kêu lên: “Đến đây đi nhiễu với tôi!” Vì thế mà họ theo tôi và đi nhiễu vài lần. Rồi nhiều người trong số họ muốn dừng, không phải vì họ nghĩ là chẳng có phước đức nào có thể được sinh ra từ việc làm này, mà vì nhiều người không biết được sự bao la của phước đức mà họ có thể thu thập được. Thực tế thì nhiều đạo sư Phật Giáo người Hán rất coi trọng sự việc này. Năm ngoái vị tăng cao tuổi hạ Benhuan được 100 tuổi, hôm nọ tôi đến thăm ngài, sau bữa ăn thì ngài bảo: “Hãy đi nhiễu tượng Phật!” Ngài bước đi rất là nhanh, thỉnh thoảng chúng tôi không thể bước kịp ngài. Vì vậy, người Hán nên coi trọng hơn nữa việc quảng bá trong dân chúng về việc đi nhiễu, nếu không thì nhiều người sẽ có một ý niệm không thích hợp về vấn đề này.
Khi đi nhiễu chúng ta nên tụng niệm gì?
Khi His Holiness Jigme Phuntsok đưa chúng tôi đi nhiễu ngôi đại tháp tại Bồ đề Đạo tràng, chúng tôi tụng một bài kệ từ Những Pháp Tu và Thệ Nguyện của đức Phổ Hiền Bồ Tát – “Năng lực để thanh tẩy tất cả mọi hành động của lòng nhân đức, năng lực để hủy diệt tất cả mọi phiền não, năng lực để hàng phục tất cả mọi thế lực xấu ác của Ma Vương, và năng lực thành tựu tất cả mọi Thiện hạnh của đức Phổ Hiền’. His Holiness Jigme Phuntsok đã truyền dạy cho chúng tôi về nhiều phước đức của việc tụng niệm bài kệ này, và nói rằng nếu chúng ta có thể hoàn thiện bốn năng lực này thì sự tu tập bất kỳ một Giáo Pháp nào cũng sẽ đều thành công. Vì vậy, trong tương lai khi quý vị đi nhiễu, trừ phi quý vị đã có một phương pháp đặc biệt để đi nhiễu của riêng mình rồi thì tốt, còn không thì nên tụng niệm bài kệ này từ Những Pháp Tu và Thệ Nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát.
Phước đức của việc nhiễu tháp thì bao la, nếu có thời gian thì quý vị nên đi nhiễu một ngôi tháp. Có nhiều ngôi tháp trên khắp Học viện chúng ta, trong đó ngôi tháp Mandala là ngôi tháp đặc biệt nhất. Lúc ngôi tháp đó đang được xây, His Holiness Jigme Phuntsok giấu 100 mật tạng (Terma) tượng Phật vô cùng phúc lợi cùng với nhiều bức tượng cổ Ấn độ ở bên trong. Trong ngôi tháp còn được chôn nhiều phẩm vật thiêng liêng vô giá mà nhìn thấy, nghe đến, sờ vào đều được ban cho sự cứu rỗi, như là xá lợi của Namchos Migyur Dorje, được chính His Holiness Jigme Phuntsok ban lực gia trì cùng với nhiều vị đại Lạt ma khác. Không có gì khác ngoài việc chỉ nhìn thấy ngôi tháp Mandala thôi cũng được lợi lạc lớn lao. Trong Phật Giáo Bí Truyền có nhiều bằng chứng trong giáo lý đề cập đến điều này, đức Kim Cang Thủ nói: “Những ai nhìn thấy ngôi tháp Mandala sẽ được thanh tẩy về bảy loại giới nguyện căn bản và 25 loại giới nguyện phụ, và đạt được thân, khẩu, ý, phước đức và hoạt động không thể tưởng tượng được của đức Như Lai.” Trong Mật Điển Cứu Rỗi Qua Nghe có nói rằng: “Những ai nhìn thấy ngôi tháp Mandala sẽ đạt được giác ngộ nội trong 7 lần tái sinh.” Điều này cũng được ghi chép trong Mật Điển An Bình và Xung Nộ rằng “Những ai đã không đích thân nhìn thấy được ngôi tháp Mandala nhưng đã từng nghe tên Mandala của đấng Bổn Tôn Chính cũng sẽ tránh khỏi được sự tái sinh trong địa ngục.” Vì vậy, khi thời gian cho phép, tôi hy vọng mọi người đều có thể đích thân đến viếng và đi nhiễu ngôi tháp Mạng Lưới Đại Huyễn Ảo Man-đa-la được ban gia trì bởi chính His Holiness Jigme Phuntsok. (Nhiều người trong số nam nữ hành giả thường xuyên đến đó, nhưng vì trên đó trời gió đến nỗi họ gần như biến thành những người Phi châu.)
Khi đi nhiễu, quý vị có thể tụng niệm danh hiệu của đức Bảo Tràng Như Lai, hoặc tụng niệm thần chú đi nhiễu, điều này có thể làm tăng phước đức lên một nghìn lần. Thần chú đi nhiễu là:
ON NAMO BHAGAWATE RATNA KITU RATZAYA TATHAGATAYA ARHATE SAMYAKSAM BUDDHAYA TAYATA OM RATNE RATNE MAHA RATNE RATNE VIZAYA SOHA
(Hãy ghi nhớ càng nhiều càng tốt, nếu không thì chẳng được ích lợi gì! Khi chúng tôi đang tụng Chiến Sĩ Ca của Gesa Vương, ở cuối mỗi bài hát đều được viết: “Hãy nhớ lấy càng nhiều càng tốt, nếu quý vị đã không nhớ thì không thể nào được lặp lại.”
Theo những giáo lý có liên quan đến, có nhiều phước đức trong việc đi nhiễu ngôi tháp Mandala của chư vị Bổn Tôn an bình và xung nộ. Trong Mật Điển Vô Cấu Nhiễm Sám Hỗi có viết rằng: “Bất kỳ ai đỉnh lễ vị Bổn Tôn của Mạn-đà-la của Mạng Đại Huyễn Ảo an bình hay xung nộ thì tất cả mọi giới nguyện bị phá vỡ có thể được thanh tẩy, tất cả mọi ác nghiệp dẫn đến địa ngục vô gián đều được xóa sạch.” His Holiness Jigme Phuntsok thường trích dẫn chứng cứ giáo lý này. Thực ra, giáo thuyết này có thể được tìm thấy không những trong Mật Điển Vô Cấu Nhiễm Sám Hối mà còn trong nhiều thủ tục cúng tế của các Mật tạng (Terma). Nếu chúng ta lễ lạy các tháp Mandala an bình và xung nộ với lòng sùng kính thì những mật giới căn bản và phụ đều có thể được thanh tẩy, và ngay cả năm tội ác ghê gớm nhất dẫn đến các địa ngục vô gián cũng có thể được thanh tẩy nữa. Các hành giả ở đây ngày nay đều quá sức gần với ngôi tháp Mandala của Mạng Đại Huyễn Ảo, thật là tội nghiệp nếu quý vị không hề đi nhiễu quanh ngôi tháp sau một thời gian dài lưu trú trong Học viện, gần giống như là một bà cụ được sinh ra ở Lhasa nhưng chết mà chưa bao giờ được nhìn thấy pho tượng của Jowo Rinpoche.
Có một vài người nghĩ rằng những việc đi nhiễu tháp, niệm thần chú, tụng danh hiệu đức Phật A Di Đà hoặc quay các bánh xe cầu nguyện là dành cho những người căn cơ thấp hoặc ngu muội, hoặc những thiện hạnh là có ý nói dành cho những người già. Những gì chúng ta cần làm là phải nghiên cứu Năm Đại Luận [những bài luận này không đặc trưng cho Phật Giáo Tây Tạng mà cũng chẳng đặc trưng Phật Giáo thuộc về hiển tông], và chúng ta không cần những kiểu tu tập này. Lối suy nghĩ như thế là vô lý. Trong Kinh Thập Địa có viết: “Ngay cả chư Bồ tát từ địa thứ nhứt tới địa thứ chín cũng đều phải cúng dường và kính lễ hình ảnh của Tam Thế Phật.” Nói chi đến địa thứ chín, chúng ta còn chưa tiến đến được con đường tu tích lũy hay đường tu những pháp tu sơ khởi nữa, cho nên chúng ta không nên dễ dàng phá hủy những thiện căn của những hành động thế tục. Bồ Tát Địa Luận đã dạy nhiều nguyên tắc về cách mà chư Bồ tát phải tôn kính và cúng dường đức Như Lai. Ngay cả chư đại Bồ tát cũng phải hành động theo cách này, chúng ta là những người chưa bước được vào đạo lộ của Đại Thừa phải bằng mọi giá không nên coi thường bất kỳ một thiện hạnh nào.
Có lẽ có người nghĩ rằng họ là những vị đại Bồ tát, nhưng điều đó cần phải có một sự quán sát nào đó. Đã từng có một vị Lạt ma già tên là Kerang. Một lần His Holiness Jigme Phuntsok đang dạy chúng tôi về phước đức của Bồ đề tâm và nói: “Tất cả quý vị đều đã có được những giới luật thiêng liêng của chư Bồ tát, vì vậy từ nay trở đi quý vị có thể được gọi là các đại Bồ tát.” Do vậy mà mỗi ngày vị Lạt ma đó đều tự gọi mình là “đại Bồ tát’. Một lần có ai đó tỏ vẻ dè dặt về những lời nói của ngài, vì vậy mà Lạt ma Kerang mới nói hết sức nghiêm túc rằng: “Có phải ông nói rằng một đại Bồ tát như tôi đây sẽ nói láo hay sao? Không thể nào!” Một người khác hỏi: “Có phải ngài thật sự là một đại Bồ tát?” “Dĩ nhiên! His Holiness Jigme Phuntsok đã không nói cho chúng ta rồi đó sao? Tôi là một đại Bồ tát.” Tôi chẳng biết liệu tất cả quý vị có nghĩ rằng quý vị đều là những đại Bố tát hết cả hay không nữa. Thực ra những vị thực sự đại Bồ tát là những ai đã đạt đến địa thứ tám hoặc cao hơn, và rồi chư vị đó có thể được gọi là đại Bồ tát.
Một vài người thậm chí còn chưa đến gần được đường tu tích lũy, nhưng lại tính đến việc không cần phải tụng niệm thần chú hay danh hiệu đức Phật A Di Đà nữa, họ cũng không cần việc đi nhiễu, vì đây là những công việc thuộc về những người căn cơ thấp. Những tư tưởng như vậy là vô lý. Bất kỳ những gì chúng ta làm, chúng ta đều phải đem đối chiếu những hành động của chúng ta với lời dạy của đức Phật. Nếu đức Phật bảo rằng điều đó là phước đức trong giáo thuyết Đại Thừa thì tuyệt đối không có sự nghi ngờ hay dối trá nào về điều đó cả, chúng ta phải tin điều đó 100% và làm theo như đức Phật đã dạy. Trong Định Vương Kinh có ghi chép: “Cho dù bầu trời và các vì sao có đổ xuống, và đất đai, biển cả, các thành phố cùng thị trấn đều đổ sụp, chân không thì cứ vậy nhưng thực chất thì đổi thay, và đức Như Lai cũng chẳng bao giờ thốt ra một lời không thật (Bản dịch Tạng ngữ có chút khác biệt với bản dịch tiếng Trung quốc).” Điều này muốn nói là cho dù các vì sao, mặt trời và mặt trăng rơi xuống khỏi bầu trời, biển cả cạn khô và đất đai rời ra từng mảnh, đức Như Lai cũng sẽ chẳng bao giờ nói láo. Do vậy, với đức tin thiêng liêng, chúng ta phải tin tưởng tất cả những lời nói Kim Cương của đức Phật; chúng ta không có lý do gì để nghi ngờ những gì đức Phật nói. Nếu ở một điểm nào đó chúng ta bị quờ quạng, thì điều này là chỉ tại bởi sự vô minh của chính mình mà chúng ta không thể hiểu được. Nếu chúng ta có thể thực sự hiểu thì những lời nói của đức Phật không thể nào không thật. Bởi chính vì sự sùng kính này mà chúng ta nên đi nhiễu tháp Phật.
Về phần quán tưởng những gì trong lúc đi nhiễu thì trong những giáo lý của Songtsen Gampo có ghi chép. Chẳng hạn, khi chúng ta đang đi nhiễu pho tượng của đức Quán Thế Âm, chúng ta nên hình dung ra rằng, hành vi ‘bên ngoài’, chư Phật và chư Bồ tát đều hòa nhập tất cả vào pho tượng đức Quán Thế Âm, hành vi ‘bên trong’, tất cả các Lạt ma của giáo lý truyền thừa đều hòa nhập vào pho tượng đức Quán Thế Âm, và hành vi ‘phổ biến’ là chư Dakini và Hộ Phật đều hòa nhập tất cả vào pho tượng đức Quán Thế Âm, và rồi tụng “OM MANI PADME HUM” trong lúc nhiễu quanh. Trong suốt lúc đi nhiễu, ánh sáng tỏa ra từ đức Quán Thế Âm hòa nhập vào chúng ta, tất cả tội lỗi đã phạm phải qua thân, khẩu và ý đều được thanh tẩy. Nhiều người có công đức to lớn đã nói rằng người ta có thể mở rộng thêm đôi chút cái tầm quán chiếu của họ, nhưng nếu không thể được thì ít nhất cũng hãy quán tưởng phần này. Chẳng hạn, nếu quý vị đi nhiễu một ngôi tháp hôm nay, thì hãy quán tưởng rằng ngôi tháp này là một khối tập hợp của sự gia trì từ chư Phật cùng chư Bồ tát khắp mười phương. Trong lúc đi nhiễu, ánh sáng phát tỏa ra từ pho tượng thánh hóa hết tất cả mọi ác nghiệp đã phạm phải trong suốt vô lượng kiếp (Kalpa) trong quá khứ. Tụng niệm câu thần chú đi nhiễu là điều được khuyến nghị. Nếu (tôi không phải là một đại ủng hộ viên của chữ "Nhưng") quý vị không thể tụng câu thần chú đó được thì hãy tụng OM MANI PADME HUM hoặc Thần Chú Một Trăm Âm, hoặc thần chú của đức Kim Cương Hùng Tâm. Khi tôi đi nhiễu, tôi thường hay tụng niệm thần chú Kim Cương Hùng Tâm, bởi vì tôi đã phạm phải quá nhiều chướng nghiệp trong vô lượng kiếp trong quá khứ và cả kiếp hiện tại, và vì vậy mà cần nên nương tựa vào một mạn đà la như thế của một đấng thánh tôn để thanh tẩy tội lỗi của chúng ta. Mỗi lần chúng ta quán tưởng ánh sáng phát tỏa ra từ chiếc mạn đà la, tội lỗi phạm phải từ thân, khẩu và ý đều có thể được thanh tẩy tất cả.
Về vấn đề số lần đi nhiễu, His Holiness Jigme Phuntsok thường nói rằng những người có khả năng vượt trội thì nên đi nhiễu trên 10.000 lần, những người trung trung thì hơn 1.000 lần, và những người yếu kém thì hơn 100 lần. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 7, Kelzang Gyaltso, có nói: “Số lần đi nhiễu tháp nên giống như 500.000 pháp tu đã được áp dụng, vì vậy 100.000 là con số tốt nhất.” Vì là những người bình phàm nên chúng ta đi nhiễu càng nhiều càng tốt. Đừng có đi nhiễu chỉ ba lần là đủ, và đã đứt hơi, và nói: “Tôi không đi nữa. Tôi sẽ về thôi!” Có người không cảm thấy căng thẳng chút nào cả khi phạm phải những nghiệp chướng xấu ác, nhưng đến khi gặp phải những thiện hạnh thì thân thể họ không còn tiếp nhận được nữa, hoặc họ bắt đầu nhiễm phải tính khí không hay.
Tượng Phật và tháp Phật là những viên ngọc ước chân thật; những vật thể này mang lợi lạc và sự gia trì cho kiếp sống hiện tại và kiếp tiếp theo. Nếu chúng ta có những hiểu biết vững chắc về điều này thì nương tựa vào đó chúng ta có thể chắc chắn tháo bỏ được những nghiệp chướng, mở rộng tầm trí tuệ, kéo dài tuổi thọ, và tất cả mọi ước muốn đều trở thành hiện thực. Đây là năng lực gia trì không thể tượng tượng được của Tam Bảo. Chúng ta có chứng cứ từ giáo lý và chứng cứ qua lý thuyết; do vậy, các bậc đã thành tựu trong quá khứ đã rất là coi trọng việc đi nhiễu các ngôi tháp và tượng của đức Phật. Tôi hy vọng rằng trong tương lai, khi quý vị đi nhiễu, tâm của quý vị vẫn giữ thanh tịnh, và hãy xem ngôi tháp đó là ngôi tháp chứa đựng châu báu, đó là sự tích lũy phước đức của thân, khẩu và ý của đức Phật. Hôm nọ, tôi đang trên một chuyến đi đến Qinghai (Thanh hải), có một tháp Phật bên trong là tóc của Vua Tri Ralpachen. Chúng tôi nghĩ đó là một cơ hội lớn để đi nhiễu, và có một cảm giác đặc biệt khác thường về ngôi tháp này. Khi tôi đang đi nhiễu, nước mắt lặng lẽ chảy xuống, bởi vì Vua Tri Ralpachen là một vị Vua rất là sùng kính Phật Giáo. Hễ khi nào nhà vua nhìn thấy một nhà sư, nhà vua trải tóc mình trên sàn và để nhà sư đó bước đi trên tóc. Được cất giấu trong ngôi Tháp này là tóc quý báu của nhà vua, tôi rất là phước đức đã nhìn thấy được một ngôi tháp như vậy trong kiếp sống này.
Trong thực tế, những vật thể tối thắng như là những ngôi tháp thì đâu đâu cũng có; chỉ là do chúng ta quá đỗi vô minh đến mức không thể biết được những giá trị của những vật thể đó. Giờ đây chúng ta đã hiểu nhiều hơn về điều này, chúng ta nên thực hiện như đã hiểu – trước tiên là hãy đi nhiễu càng nhiều lần càng tốt khi chúng ta bắt gặp một ngôi tháp, và nếu thời gian cho phép, hãy đi nhiễu cả ngày lẫn đêm. Lúc tôi đang học tại Garze Normal School, có một sảnh cung Kyabje (nghĩa là đại sảnh của vị bảo hộ). Tôi đi nhiễu quanh mỗi buổi sáng, trong thời gian ban ngày và chiều tối. Vì thế, chúng tôi không được dừng lại ở một hoặc hai vòng mà phải đi nhiễu càng nhiều càng tốt. Thứ hai, như đã được ghi chép trong các Kinh Phật, chúng ta phải đi nhiễu theo chiều kim đồng hồ, điều này nhắm vào ít hành giả Phật Giáo nào đó. Chúng ta phải ghi nhớ hai điểm này. Sau khi đi nhiễu xong, chúng ta nên tụng vài bài hồi hướng đơn giản hoặc mở rộng, dâng hiến phước đức đến sự giác ngộ của tất cả chúng sinh.
Dĩ nhiên, cúng dường trước tháp, lễ lạy tháp và kể cả lau chùi tháp cũng đều mang lại nhiều phước đức, nhưng do bởi không đủ thời gian, tôi sẽ không nói nhiều về điều đó ở đây. Tóm lại, phước đức của việc đi nhiễu tháp là không thể đo lường được, chúng ta phải phát triển tín tâm không lay chuyển!
Để tu tập những hạnh trí tuệ của đức Phổ Hiền Bồ-Tát
Con nay hồi hướng tất cả mọi thiện căn đã được vun trồng của con
Để gắn liền vào chúng bằng những sự chuyên cần học hỏi.
Được tán dương bởi Tam Thế chư Phật,
Đó là những Tâm Nguyện cao thượng nhất;
Con nay hồi hướng tất cả những thiện căn đã được vun trồng
Để đạt được những hạnh tối thắng của đức Phổ Hiền Bồ-Tát.
Con nay hồi hướng tất cả mọi thiện căn đã được vun trồng của con
Để gắn liền vào chúng bằng những sự chuyên cần học hỏi.
Được tán dương bởi Tam Thế chư Phật,
Đó là những Tâm Nguyện cao thượng nhất;
Con nay hồi hướng tất cả những thiện căn đã được vun trồng
Để đạt được những hạnh tối thắng của đức Phổ Hiền Bồ-Tát.
Quán Xét Vấn:
1. Tháp Phật tiêu biểu cho điều gì? Những phước đức của việc xây dựng, tu sửa và đi nhiễu một ngôi tháp là gì? Xin hãy vui lòng trình bày với những chứng cứ giáo lý cụ thể.
2. Nếu một người xây một ngôi tháp hoặc đi nhiễu một ngôi tháp với một cái tâm phân tán thì có phước đức không? Tại sao?
3. Nếu quý vị không có một ngôi tháp ở quanh vùng mình thì quý vị nên làm thế nào để tích lũy phước đức về phương diện này? Làm sao quý vị có thể giúp được cha mẹ quý vị tích lũy loại phước đức này?
4. Từ cổ chí kim, các vị đại đạo sư Phật Giáo giữ loại thái độ như thế nào đối với sự đi nhiễu tháp? Quý vị có cảm nghĩ như thế nào về điều này?
5. Quý vị nên tụng niệm những gì lúc đi nhiễu? Quý vị nên thiền như thế nào?
Sau khi biết được những phước đức phi thường mà có thể phát sinh từ một ngôi tháp thì hai công hạnh mà quý vị sẽ thực hiện là gì?
6. Loại tháp Phật nào quý vị đã từng nhìn thấy? Lúc đó quý vị đang làm gì? Sau khi học xong bài này, quý vị sẽ làm gì trong tương lai? Bằng cách nào quý vị có thể nói cho nhiều người nữa biết về phước đức của việc đi nhiễu tháp theo chiều kim đồng hồ?
Chú thích:
I. Swayambhunath Stupa là ngôi tháp Phật cổ xưa nhất trên thế giới. Theo những tài liệu lịch sử, lúc tuổi thọ của con người là 10.000 năm, một ngôi tháp pha lê cao một bộ Anh (tương đương 30cm) được hình thành một cách tự nhiên từ trí tuệ của chư Phật; vào thời đức Phật Krakucchanda (Câu Lưu Tôn), nguyên cả nước Nepal là một biển nước, ngôi tháp này nổi lên từ biển đó; vào thời của đức Phật Kanakamuni (Câu Na Hàm Mâu Ni), ngôi tháp này được gọi là ngôi tháp của lời nói không bị ngăn ngại của cõi thực tại; vào thời đức Phật Kassapa (Ca Diếp), Đạo Sư Jide mở rộng hình dáng bên ngoài của ngôi tháp này nhằm để bảo vệ ngôi tháp, cho đến ngày nay, ngôi tháp này vẫn còn đứng đó.
II. Theo tại liệu lịch sử, việc xây dựng ngôi tháp Putong ở Hebei Provice bắt đầu vào năm Hoàng đế Minh Vĩnh Bình Năm thứ 12 của triều Đông Hán (69 sau Tây lịch), và hoàn thành vào ngày Rằm tháng Giêng Vĩnh Bình Năm thứ 15, sớm hơn ngôi tháp của Tu viện Baima thuộc Louyang (Lạc dương) hai năm.
III. Kinh Thí Dụ trích mười thiện báo của việc xây dựng tháp:
1. Người đó sẽ không bị sinh ra ở những vùng biên giới (biên địa);
2. Người đó không bị chịu đựng đau khổ bởi cảnh đói nghèo;
3. Người đó không nhận một thân xác ngu si và nhận thức sai lầm (tà kiến);
4. Người đó tiếp nhận chiếc ngai vàng của 16 vương quốc;
5. Người đó có kiếp sống dài lâu;
6. Người đó đạt được Năng Lực Kim Cương Bất Khả Hoại;
7. Người đó đạt được đại lực gia trì và nhiều công đức bao la vô lượng;
8. Người đó tiếp nhận lòng bi mẫn của chư Phật cùng chư Bồ tát;
9. Người đó hoàn thành ba loại tỉnh thức phi thường;
10. Người đó sẽ được sinh về tịnh thổ.
IV. Theo Phước Đức Xây Dựng Tháp Để Kéo Dài Thọ Mạng và Tích Lũy Phước Đức, khi một người xây ngôi tháp với một cái tâm thanh tịnh, những phước đức mà người đó tích lũy là như thế này:
1. Người đó sẽ không bị đầu độc trong kiếp sống này, thọ mạng sẽ dài lâu, người đó sẽ không chết đột ngột, và cuối cùng đạt được thân bất khả hoại. Tất cả ma quỷ và chư thiên không dám đến gần, tất cả kẻ thù sẽ đều tan rả;
2. Người đó sẽ thoát khỏi mọi bệnh tật; tất cả chúng sinh sẽ đều vui sướng khi nhìn thấy người đó;
3. Những giới luật bị suy đồi của người đó sẽ được thanh tẩy, những ai không dễ quy phục sẽ được thuần hóa, những kẻ ô trọc sẽ trở thành được thanh tịnh, những giới luật về ăn kiêng mà người đó phá vỡ sẽ được phục hồi;
4. Bốn đại giới và năm loại ác nghiệp dẫn đến địa ngục A-tỳ (vô gián) mà người đó đã vi phạm sẽ được xóa bỏ. Tất cả các nghiệp chướng tích lũy qua vô lượng kiếp (Kalpa) trong quá khứ sẽ được thanh tịnh;
5. Nếu người đó ước muốn sinh được một con trai, người đó sẽ được gia trì bằng đức hạnh và sức khỏe.
6. Người đó sẽ luôn được bảo vệ bởi bốn vị vua trời (Tứ Thiên Vương);
7. Cho dù ngôi tháp đó có bị phá hủy và trở thành bụi, và bụi đó được gió chuyển tải qua các khu rừng, núi, sông và biển, tất cả chúng sinh nào mà chạm vào bụi này sẽ không bao giờ bị tái sinh với những thân thể bất tịnh và sẽ luôn luôn có khả năng nhìn thấy đức Phật.
V. Hãy tránh xa tất cả mọi hành động không lành mạnh, hãy thực hiện những hành động hữu ích, hãy thanh tẩy tâm mình – đây là giáo huấn của chư Phật.” Hoặc “Tất cả mọi hiện tượng đều khởi sinh từ những yếu tố nhân quả, và đức Phật nói đó là cái nhân; những hiện tượng này chấm dứt vì những yếu tố nhân quả đã hết, và đây là lời nói của vị đại sa môn.” Cả hai bài kệ đều hay, nhưng bài sau thì được dùng rộng rãi hơn.
VI. Bảy tăng sĩ tập sự: nhóm tăng sĩ Phật Giáo đầu tiên trong lịch sử Tây Tạng. Vào thời đó, Trisong Detsen muốn xem xét liệu người Tây Tạng có thể trì giữ những giới luật được hay không, vì vậy mà nhà vua truyền giới xuất gia cho bảy người để trở thành những vị tăng như là một sự thử thách, đi theo ngài Shantarakshita (Thiện Hải Tịch Hộ) là người dùng giới luật Hữu Bộ. Và những vị này là: Ba Selnang, Ba Trizhi, Pagor Vairocana, Ngenlam Gyelwa Choyang, Kohnlui Wangpo Sungwa, Ma Rinchen Chog và Lasum Gyalwa Jangchub. Trong những tài liệu lịch sử của Phật Giáo Tây Tạng, có nhiều lời nói khác nhau về tên của bảy vị tăng này.
Mạn Đà La của Mạng Lưới Đại Huyễn Ảo cũng là một ngôi tháp. Ngôi tháp này được phân loại là một ngôi tháp Mandala. Namchos Migyur Dorje là tên gọi Tây Tạng. Vị này nguyện sẽ chữa lành bệnh tật bằng di cốt của ngài. “Namchos” có nghĩa là phái Thiên Pháp thuộc phái Bạch Ngọc Nyingma. Theo Gongtang Danbi Zhunmei, tác giả của The Maxim of Water and Wood, phước đức có thể được tăng lên 1.000 lần. Tuy nhiên, cũng có những lời cho rằng nó có thể làm tăng phước đức 10.000 lần.
Tiểu Tăng Nguyệt Quang Bảo dịch từ nguồn:
http://blog.sina.com.cn/s/blog_64a850b80102duqn.html
Hình 1: Ngôi tháp xây trên núi vùng Turners Station, bang Kentucky, và Drupon Rinpoche - người xây ngôi tháp
Hình 2: Đi nhiễu vừa xong, sau lễ khánh thành tạm vì ngôi tháp chưa hoàn chỉnh
-
No comments:
Post a Comment