Tái Sinh
Lời giới thiệu
Kính thưa toàn thể đồng bào* Tây Tạng, trong cũng
như ngoài nước (Tây Tạng),
cùng tất cả quý vị đang tu tập theo truyền thống Phật
Giáo Tây Tạng,
và quý vị đang có một mối kết giao nào đó với đất nước
và dân tộc Tây Tạng:
Thể theo viễn kiến của các quốc vương, rồi những vị kế
nhiệm sau đó và những học giả lão luyện của dân tộc chúng ta thời xa xưa, trọn vẹn
giáo pháp của Đức Phật, gồm những giáo pháp từ kinh điển và giáo pháp từ thực
chứng của Ba Thừa và Bốn Bộ Phái Mật Điển và nhiều giáo huấn liên quan đã phát
triển rộng khắp ở Xứ Tuyết. Tây Tạng đã từng đóng vai trò như là một nguồn cung
cấp những truyền thống Phật Giáo và những truyền thống văn hóa có liên quan đến
Phật Giáo cho thế giới. Đặc biệt là đã góp phần đáng kể vào hạnh phúc của vô số
chúng sinh ở châu Á, có cả ở Tàu, Tây Tạng và Mông Cổ.
Trong quá trình phát huy truyền thống Phật Giáo ở
Tây Tạng, chúng ta đã tiến đến chỗ phát triển được một truyền thống Tây Tạng độc
nhất vô nhị về vấn đề nhận diện những tái sinh của những học giả lão luyện đã từng
là những trợ lực vô cùng to lớn cho cả Phật Pháp lẫn chúng sinh, đặc biệt là đối
với cộng đồng tu sĩ.
Từ khi ngài Gedun Gyatso toàn giác được nhận diện và
được xác nhận là hóa thân của ngài Gedun Drub hồi thế kỷ thứ 15 và Gaden
Phodrang Labrang (Định Chế Đạt Lai Lạt Ma) được thiết lập, những vị hóa thân kế
tục đã được công nhận. Vị thứ ba trong dòng truyền thừa, Sonam Gyatso, được ban
tặng danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma. Vị Đạt Lại Lạt Ma thứ 5, Ngawang Lobsang Gyatso,
thành lập Chính Phủ Gaden Phodrang vào năm 1642, trở thành vị lãnh đạo cả tâm
linh lẫn chính trị của Tây Tạng. Trong hơn 600 năm, kể từ thời của ngài Gedun
Drub, một chuỗi dài tái sinh không có sai sót đã được công nhận trong dòng truyền
thừa của Đạt Lại Lạt Ma.
Đạt Lai Lạt Ma đã phải đảm trách cả hai chức năng vừa
là một lãnh đạo chính trị vừa là một lãnh đạo tâm linh của đất nước Tây Tạng
trong 369 năm, tính từ năm 1642. Nay tôi tình nguyện kết thúc định chế này, hãy
lấy làm hãnh diện và mãn nguyện rằng chúng ta có thể theo đuổi một hệ thống cai
trị ít nhiều mang tính dân chủ đang phát triển ở những nơi khác trên thế giới.
Trong thực tế, ngay từ năm 1969, tôi đã trình bày rõ ràng rằng những ai có quan
tâm đến vấn đề này nên đi đến quyết định là sự tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma có
nên tiếp tục trong tương lai nữa hay không. Tuy nhiên, với sự thiếu vắng những
hoạch định rõ ràng, nếu như công chúng
lưu tâm thể hiện một ước muốn mạnh mẽ tiếp tục định chế Đạt Lai Lạt Ma, thì rõ
ràng có một nguy cơ là những kẻ vì những
lợi ích chính trị được ban phát sẽ lạm dụng hệ thống truyền thừa theo tái sinh
để đạt được mục đích cho bộ máy tuyên truyền về chính trị của họ. Vì vậy, trong
khi tôi vẫn còn khả năng về cả thể xác lẫn tinh thần để đảm trách công việc trong
vị trí này, điều dường như quan trọng đối với tôi là chúng ta hoạch định những
phương cách để nhận diện vị Đạt Lai Lạt Ma kế tiếp, để không có chỗ cho nghi ngờ
hoặc dối trá xen vào. Để cho những phương cách này được dễ dàng lĩnh hội toàn vẹn,
điều cần thiết là phải hiểu được hệ thống nhận diện Tulku và những khái niệm
căn bản phía sau của nó. Do đó, dưới đây tôi sẽ giải thích ngắn gọn.
Những kiếp sống quá khứ và vị lai
Để chấp nhận sự tái sinh hoặc tính xác thật của những
Tulku, chúng ta cần phải chấp nhận vấn đề có những kiếp sống quá khứ và vị lai.
Chúng sinh đi vào kiếp sống hiện tại từ những kiếp sống trước của họ và lại tiếp
tục tái sinh sau khi chết. Loại tái sinh liên tục này được tất cả những truyền
thống tâm linh và trường phái triết học Ấn-độ cổ xưa chấp nhận, ngoại trừ những
người Charvakas – một phong trào theo chủ nghĩa duy vật. Vài nhà tư tưởng hiện
đại phủ nhận những kiếp sống quá khứ và vị lai dựa trên căn bản cho rằng chúng
ta không nhìn thấy những điều như vậy. Những người khác thì không rút ra được
những kết luận rõ ràng từ lập luận đó.
Dù là nhiều truyền thống tôn giáo chấp nhận tái
sinh, nhưng lại khác nhau trong quan điểm về cái tái sinh đó là cái gì, nó đã
tái sinh như thế nào, và nó đã đi qua giai đoạn trung chuyển giữa hai kiếp sống
ra sao. Vài truyền thống tôn giáo chấp nhận viễn cảnh của kiếp sống vị lai,
nhưng lại bác bỏ ý niệm về những kiếp quá khứ.
Nói chung, những người tu theo Phật Giáo tin rằng sự
sinh không có khởi thủy và một khi chúng ta đạt được giải thoát khỏi vòng luân
hồi qua sự chế phục nghiệp chướng và những cảm xúc tiêu cực, chúng ta sẽ không
bị tái sinh từ tác động của những điều kiện này. Do vậy, Phật tử tin rằng có sự
chấm dứt đối với vấn đề bị tái sinh do kết quả của nghiệp và những cảm xúc tiêu
cực, nhưng hầu hết những trường phái triết lý Phật Giáo không chấp nhận rằng
dòng tâm thức đi đến chỗ kết thúc. Bác bỏ sự tái sinh trong quá khứ và vị lai sẽ
mâu thuẫn với ý niệm về nền tảng, đạo lộ và kết quả, mà nó phải được giải thích
dựa trên căn bản của một cái tâm thuần phục hoặc bông lung. Nếu chúng ta chấp
nhận cái lập luận này, thì rốt cuộc chúng ta cũng sẽ phải chấp nhận rằng thế giới
này và những cư dân của nó xuất hiện mà không có những nhân (nguyên nhân) và
duyên (điều kiện) nào cả.
Vì vậy, hễ là một Phật tử thì chấp nhận có sự tái sinh ở quá khứ
và vị lai là vấn đề thiết yếu.
Những ai nhớ được những kiếp sống quá khứ thì sự tái sinh là một kinh nghiệm rõ ràng đối với
họ. Tuy nhiên, hầu hết chúng sinh phàm trần quên những kiếp sống quá khứ khi họ
trải qua tiến trình chết, giai đoạn trung gian và tái sinh. Vì vấn đề tái sinh
trong quá khứ và vị lai có phần mù mờ đối với họ, chúng ta cần phải sử dụng
cách lý giải có trước có sau qua bằng chứng để chứng minh cho họ về sự tái sinh
của quá khứ và vị lai.
Có nhiều lập luận hợp lý và khác biệt nhau trong những
lời nói của Đức Phật và những luận giải sau đó để chứng minh sự tồn tại của những
kiếp sống quá khứ và vị lai. Tóm lại, những lập luận đó quy về bốn điểm: cái luận
lý cho rằng sự vật được dẫn trước bởi những sự vật cùng một dạng tương đồng với
nhau, cái luận lý cho rằng sự vật được dẫn trước bởi một nguyên nhân cụ thể, cái
luận lý cho rằng tâm thức đã làm quen được với sự vật trong quá khứ, và cái luận
lý về vấn đề đã có được kinh nghiệm về sự vật trong quá khứ.
Cuối cùng thì tất cả những luận giải này đều dựa
trên cái ý tưởng cho rằng bản chất của cái tâm, sự trong sáng và tỉnh thức của
nó, phải có sự trong sáng và tỉnh thức
làm cái nhân cụ thể của nó. Nó không thể có một thực thể nào khác, chẳng hạn
như là một vật vô tri vô giác làm cái nhân cần thiết cho nó. Điều này là hiển
nhiên. Qua những phân tích đầu đuôi hợp lý, chúng ta suy ra được rằng một dòng
mới của tính trong suốt và tỉnh thức
không thể nào hình thành mà không do những nguyên nhân nào hoặc là từ những
nguyên nhân không có liên quan gì đến. Trong khi chúng ta quán sát rằng tâm
không thể được sản sinh từ một phòng thí nghiệm, chúng ta cũng suy ra được rằng
không có gì có thể loại bỏ tính liên tục của cái tính trong sáng và tỉnh thức
vi tế được.
Theo tôi biết
thì chẳng có một nhà tâm lý, vật lý, hay thần kinh học hiện đại nào có khả năng
quan sát hoặc tiên đoán được sản phẩm của tâm thức hình thành từ vật chất hoặc
là không do bất kỳ một nguyên nhân nào cả.
Có những người có thể nhớ được kiếp sống vừa qua của
họ hoặc thậm chí nhiều kiếp đã qua, cũng như có khả năng nhận diện những nơi ở
và người thân từ những kiếp sống đó. Đây không chỉ là điều gì đó đã xảy ra
trong quá khứ. Ngay cả ngày nay, có nhiều người ở Đông phương và Tây phương có
thể nhớ lại được những sự kiện và kinh nghiệm họ đã trải qua trong những kiếp sống
quá khứ. Chối bỏ điều này thì chẳng phải là một phương cách trung thực và khách
quan trong công việc tìm tòi nghiên cứu, bởi vì nó trái ngược hẳn với chứng cứ
này. Hệ thống nhận diện những người tái sinh của Tây Tạng là một mô hình điều
tra trung thực dựa trên hồi ức về quá khứ của họ.
Tái sinh diễn ra như thế nào
Có
hai cách mà người ta có thể nhận lãnh tái sanh sau khi chết: sự tái sanh do ảnh hưởng của nghiệp và những
cảm xúc tiêu cực, và tái sanh qua năng lực của từ bi và cầu nguyện. Với
trường hợp thứ nhất, do vô minh nên thiện nghiệp và ác nghiệp tạo ra và lưu lại
những dấu ấn trên tâm thức. Những dấu ấn này bị làm cho khởi động lại bởi cái
tính tham ái và chấp thủ, đẩy chúng ta vào kiếp sống tiếp theo. Rồi chúng ta nhận
lãnh sự tái sinh vào những cõi cao hơn hoặc thấp hơn, ngoài ý muốn. Đây là cách
thức mà chúng sinh phàm trần xoay quầng không ngừng nghỉ qua luân hồi giống
như sự xoay chuyển của một cái bánh xe. Cho dù nằm trong những tình cảnh như vậy, những
chúng sinh bình thường cũng có thể bằng một khát vọng tích cực tinh tấn dấn
thân hành thiện ngày này qua ngày khác trong đời sống của họ. Họ tự làm quen với
đức hạnh mà vào giây phút lâm chung nó có thể được tái khởi động mang lại cho họ
những điều kiện để nhận được một tái sinh vào một cõi giới cao hơn. Mặt khác,
chư Bồ-tát cao cả, những vị đã đạt được Kiến-đạo (còn được gọi là Thông-đạt-đạo),
không bị tái sinh bởi năng lực của nghiệp và những cảm xúc tiêu cực của quý
ngài, mà do nơi năng lực của lòng từ bi của quý ngài dành cho chúng sinh và dựa
trên những sự nguyện cầu cho lợi lạc của tha nhân. Các vị Bồ-tát có khả năng chọn
lựa nơi chốn và thời gian để sinh cũng như cha mẹ tương lai cho mình. Một tái
sinh như vậy, một tái sinh chỉ với một mục đích duy nhất là vì lợi lạc của tha
nhân, là sự tái sinh bằng sức mạnh của lòng từ bi và cầu nguyện.
Ý nghĩa của Tulku
Hình như tập tục tặng biệt danh ‘Tulku’ (Hóa Thân Phật)
cho những vị được công nhận là tái sinh bắt đầu từ khi những tín đồ sử dụng nó
làm một danh hiệu vinh dự, nhưng từ đó nó đã trở thành một lối diễn đạt phổ
thông. Nói chung, thuật ngữ Tulku là nói đến một khía cạnh đặc biệt của Đức Phật,
một trong ba hoặc bốn khía cạnh được diễn đạt trong Hiển Thừa. Theo sự giải
thích này, về những phương diện này của Đức Phật, một con người mà hoàn toàn bị
trói buộc bởi những cảm xúc và nghiệp tiêu cực có tiềm năng đạt được Pháp Thân,
gồm Pháp Thân Trí Tuệ và Pháp Thân Bản Tánh. Pháp Thân Trí Tuệ là nói đến cái
tâm đã giác ngộ của một vị Phật, nhìn thấy mọi sự vật trực tiếp và xúc tích,
như nó là, ngay tức khắc. Cái tâm đó đã được tẩy sạch tất cả các cảm xúc tiêu cực
và cả những tỳ vết của nó bằng sự tích lũy công đức và trí tuệ qua một thời
gian dài. Pháp Thân Bản Tánh là nói đến bản chất trống rỗng (tánh Không) của
cái tâm giác ngộ biết tất cả (toàn giác) đó. Tự thân hai phương diện này kết hợp
với nhau làm nên những đặc điểm của chư Phật. Tuy nhiên, vì chư Phật và chúng
sinh không thể trực tiếp giao tiếp được với nhau, mà chỉ có giữa chư Phật với
nhau thôi, nên chư Phật buộc phải hóa hiện trong những thân xác vật lý mà chúng
sinh có thể tiếp cận được nhằm giúp đỡ họ. Từ đó, khía cạnh vật lý tối hậu của
một vị Phật là Thân Hưởng Thụ Toàn Vẹn (Báo Thân), chư Bồ-tát cao siêu có thể
giao tiếp được, và có năm năng lực nhất định, chẳng hạn như là cư ngụ ở tầng trời
Sắc Cứu Cánh (Akanisha Heaven). Và từ Báo Thân hiễn hiện vô số Hóa Thân hay
Tulku (Nirmanakaya - Ứng Thân hay Ứng Hóa Thân) của chư Phật, những thân này xuất
hiện như là chư thiên hoặc con người và ngay cả những chúng sinh bình thường
cũng có thể tiếp xúc được. Hai phương diện vật lý này của Đức Phật được gọi là
những Sắc Thân (Form Bodies), nghĩa là vị tha.
Hóa Thân đó có ba dạng:
a. Hóa
Thân Tối Thượng như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật lịch sử, vị Phật đã thể
hiện mười hai hành động của một vị Phật như là sinh ra ở một nơi chốn do mình
chọn lựa v.v…
b. Hóa
Thân Nghệ Nhân phục vụ người khác bằng cách xuất hiện như là một người thợ thủ
công, một nghệ nhân và v.v…
c. Hóa
Hiện Thân (hoặc Nhập Thể Hiện Thân), theo đó chư Phật thị hiện trong nhiều hình
sắc khác nhau như loài người, loài thần, sông, cầu, thảo dược, và cây cối để
giúp chúng sinh.
Trong ba dạng Hóa Thân này, những hóa thân (tái
sinh) của những đạo sư tâm linh được công nhận và tôn xưng là ‘Tulku’ ở Tây Tạng
nằm vào phạm trù thứ ba. Trong số những vị Tulku này có thể có nhiều vị là những
Hóa Hiện Thân Chư Phật đầy đủ phẩm hạnh thật sự, nhưng điều này không cần thiết
phải áp dụng cho tất cả các vị Tulku. Trong số những vị Tulku của Tây Tạng có
thể có những vị là những hóa thân của những vị Bồ-tát cao cả, những Bồ-tát đang
trên đường tích tập và chuẩn bị, cũng như những đạo sư mà rõ ràng là chưa bước
vào những Bồ-tát đạo này. Vì vậy, danh hiệu Tulku được tặng cho những vị Lạt ma
tái sinh căn cứ vào những căn bản của những sự tương đồng của họ với những
chúng sinh đã giác ngộ hoặc qua những sự liên kết của họ với những phẩm chất
nào đó của những chúng sinh đã giác ngộ.
Như ngài Jamyang Khyentse Wangpo đã nói:
“Tái sinh (hóa thân) là những gì xảy ra khi ai đó tiếp
nhận sự tái sinh sau cái chết của người trước (tiền kiếp); hiện thân là khi những
sự hóa hiện diễn ra mà không có sự chết
đi của người hóa hiện.”
Sự Nhìn Nhận
Hóa Thân
Tập tục nhìn nhận ai là ai qua việc xác minh tiền kiếp của một ai đó đã có ngay cả
khi chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế. Nhiều ghi chép về vấn đề này được tìm thấy trong bốn
Chương Agama của Luật Tạng, Những Chuyện Về Tiền Thân Đức Phật, Kinh Hiền Ngu,
Kinh Một Trăm Nghiệp v.v…, trong đó Đức Như Lai đã nói cho biết sự vận hành của
nghiệp, kể lại vô số những mẫu chuyện nói về một con người trong kiếp sống hiện
tại phải nhận lãnh những nghiệp quả như thế nào từ những nghiệp nào đó họ đã tạo
ra trong quá khứ. Thêm nữa, trong những mẫu chuyện về những đạo sư Ấn-độ, những
người sống sau thời của Đức Phật, có nhiều vị cho biết những nơi chốn họ đã
sinh ra trước kia. Có nhiều câu chuyện như thế, nhưng ở Ấn-độ không có hình
thành một hệ thống thừa nhận và thống kê những vị hóa thân của họ.
Hệ Thống Thừa Nhận Hóa Thân (Tái Sinh) ở Tây Tạng
Những kiếp sống quá khứ và vị lai đã được xác định
trong truyền thống đạo Bon bản địa của Tây Tạng trước khi Phật Giáo xuất hiện ở
xứ này. Và kể từ khi Phật Giáo được truyền bá ở Tây Tạng, thật ra là tất cả mọi
người dân Tây Tạng đều đã tin là có những kiếp sống quá khứ và vị lại rồi. Vấn
đề truy xét những trường hợp tái sinh của những vị đạo sư tâm linh, những người
bảo trì Phật Pháp, cũng như phong tục cầu nguyện hết mình đến các vị đạo sư đó,
nổi lên khắp Tây Tạng. Nhiều bản Kinh gốc, nhiều sách vở thuộc bản địa Tây Tạng
như Mani Kabum và ‘the Fivefold Kathang Teachings’ và nhiều sách khác như ‘The
Books of Kadam Disciples’ và ‘the Jewel Garland: Responses to Queries’, được thuật lại ở Tây Tạng bởi vị đạo sư Ấn độ
danh tiếng có một không hai là Dipankara Atisha vào thế kỷ thứ 11, kể những mẫu
chuyện về những hóa thân của đức Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát của lòng Từ Bi.
Thế nhưng, truyền thống hiện thời về việc chính thức công nhận những tái sinh của
những đạo sư bắt đầu lần đầu tiên vào đầu thể kỷ thứ 13 qua sự thừa nhận
Karmapa Pagshi là tái sinh của Đức Karmapa Dusum Khyenpa bởi các đệ tử theo như sự tiên đoán của Ngài.
Từ đó, đã có mười bảy vị Karmapa tái sinh qua hơn chín trăm năm. Tương tự như vậy,
kể từ khi sự công nhận Kunga Sangmo là tái sinh của Khandro Choekyi Dronme vào
thế kỷ thứ 15, đã có hơn mười tái sinh của Samding Dorje Phagmo. Do đó, trong số
những vị Tulku được công nhận ở Tây Tạng có những tu sĩ và những hành giả mật
tông nam và nữ tại gia. Hệ thống thừa nhận tái sinh này dần dần lan truyền đến
những truyền thống khác của Phật Giáo Tây Tạng, và đạo Bon, ở Tây Tạng. Ngày
nay, có những vị Tulku được công nhận trong tất cả các truyền thống Phật Giáo
Tây Tạng, dòng Sakya, dòng Geluk, dòng Kagyu và dòng Nyingma, có cả dòng Jonang
và Bodong, những người phục vụ cho Phật Pháp. Điều cũng hiển nhiên là trong số
những vị Tulku này, có vài người thuộc hàng bất xứng.
Đấng toàn giác Gedun Drub, người đã từng là một môn
đệ trực tiếp của Đức Je Tsongkhapa, thành lập tu viện Tashi Lhunpo ở Tsang và
chăm sóc các môn đệ của ngài. Ngài qua đời vào năm 1474 ở tuổi 84. Tuy là buổi
ban đầu chẳng ai màng đến chuyện nhận dạng sự tái sinh của ngài, nhưng người ta
cũng buộc phải thừa nhận một đứa bé tên là Sangye Chophel, sinh ra ở Tanak,
Tsang, năm 1476, bởi những gì cậu bé đã phải nói về những hồi ức tuyệt vời và
hoàn hảo về kiếp sống vừa qua của mình. Từ đó, một truyền thống bắt đầu công việc tìm
kiếm và thừa nhận những hóa thân kế tục của những Đạt Lai Lạt Ma do Gaden
Phodrang ,và về sau là chính phủ Gaden Phodrang, tiến hành.
Những cách thức nhìn nhận những vị tái sinh
Sau khi hệ thống thừa nhận các vị Tulku đi vào hiện
hành, nhiều phương thức khác nhau để tiến hành công việc bắt đầu hình thành và
phát triển. Trong số những phương thức này có vài phương thức tối quan trọng
liên quan đến bức thư cùng với những hướng dẫn cũng như những biểu hiện đích thị
có thể xảy ra; sự hồi tưởng một cách xác đáng về kiếp vừa qua và sự nói về kiếp
sống đó của vị tái sinh; nhận diện những vật sở hữu của tiền thân và nhận diện
những người đã từng thân cận với vị đó. Ngoài những phương thức này ra còn có
thêm nhiều cách thức khác bao gồm việc thỉnh cầu những lời tiên tri từ bói toán
ở những đạo sư tâm linh khả tín cũng như tìm kiếm những sự tiên đoán từ những
nhà tiên tri thế tục, những người xuất hiện qua những phương tiện trong thôi
miên, và quan sát những hình ảnh hiện lên trong những hồ thiêng của những vị hộ
pháp như hồ Lhamoi Latso, một hồ thiêng ở
phía nam của Lhasa.
Khi xảy ra vấn đề có đến hơn một ứng viên có triển vọng
cho sự công nhận là một Tulku, và vấn đề trở thành khó đạt được quyết định, thì
có một biện pháp để đi đến quyết định cuối cùng bằng việc bói toán theo phương
pháp dough-ball (zen tak) trước một bức ảnh thiêng liêng trong lúc khẩn cầu
năng lực của sự thật.
Hóa Thân trước khi cái chết của Tiền Thân xảy ra
Thông thường thì một sự tái sinh phải là một sự nhận
lãnh một tái sinh làm một con người của một ai đó sau khi cái chết của tiền thân
đã xảy ra. Thông thường thì những chúng sinh bình thường không thể hóa hiện một
hóa thân trước khi chết, nhưng những Bồ-Tát cao siêu, những vị có khả năng tự
hóa hiện trong hàng trăm hoặc hàng ngàn thân xác cùng một lúc, có thể hóa hiện
một hóa thân trước khi chết. Bên trong hệ
thống thừa nhận những vị Tulku của Tây Tạng có những vị hóa thân là những người
thuộc cùng một dòng tâm thức với người tiền kiếp, có những vị hóa thân là những
người có những kết nối với người khác qua năng lực của nghiệp và sự nguyện cầu,
và có những vị hóa thân là những người xuất hiện do kết quả của những sự ban
phước và hứa hẹn.
Mục đích chính của sự xuất hiện của một vị tái sinh
là để tiếp tục công việc phục vụ Phật Pháp và chúng sinh còn dang dở của vị tiền
thân. Về trường hợp của một vị Lạt-ma là một người bình thường, thay vì có một
tái sinh thuộc cùng một dòng tâm thức, một người khác với những mối liên kết với
vị Lạt-ma đó qua nghiệp thanh tịnh và những sự cầu nguyện có thể được thừa nhận là hóa thân của vị Lạt-ma
đó. Ngoài ra, một vị La-ma cũng có thể bổ nhiệm một người kế tục mình mà người
đó hoặc là một đệ tử hoặc là một người trẻ tuổi sẽ phải được thừa nhận là hóa
thân của mình. Vì những khả năng này đều có thể xảy ra trong trường hợp của một
người bình thường, một hóa thân trước khi chết mà không cùng dòng tâm thức cũng
khả thi. Ở vài trường hợp một vị La-ma
cao cấp có thể có nhiều tái sinh cùng một lúc, như là hiện thân của thân, khẩu
và ý và v.v… Thời gian vừa qua, đã có nhiều vị hóa thân trước khi chết nổi tiếng
như là Dudjom Jigdral Yeshe Dorje và Chogye Trichen Ngawang Khyenrab.
Việc sử dụng chiếc Lọ Vàng
Bởi thời mạt pháp ngày càng trở nên tồi tệ hơn, và
vì ngày càng có nhiều tái sinh hơn nữa của những vị La-ma cao cấp đang được thừa
nhận, vài người trong số họ chạy theo những động cơ chính trị, những con số
ngày càng gia tăng đã được thừa nhận qua những phương tiện không xứng hợp và đầy
nghi vấn, kết quả của vấn đề này là nó đã gâytổn hại rất lớn cho Phật Pháp.
Trong thời gian xung đột giữa Tây Tạng và những người
lính Nepal (the Gurkhas, 1791 – 93) chính phủ Tây Tạng đã phải kêu gọi sự chống
đỡ của quân đội Mãn Thanh. Do đó mà quân
lính của Nepal bị đẩy ra khỏi Tây Tạng, nhưng về sau thì các quan chức nhà Mãn
Thanh lập ra một kiến nghị 29 điểm viện cớ là để làm cho sự vận hành của chính
phủ Tây Tạng được hiệu quả hơn. Kiến nghị này bao gồm đề xuất bốc thăm từ một
Chiếc Lọ Vàng để quyết định về việc thừa nhận những tái sinh của các Đạt Lai Lạt
Ma, các Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lamas) và các vị Hutuktu, một danh hiệu của
người Mông Cổ trao tặng cho những La-ma cao cấp. Vì vậy, phương pháp này được
thừa hành trong trường hợp xúc tiến việc thừa nhận những tái sinh nào đó của Đức
Đạt Lai Lạt Ma, Đức Ban Thiền Lạt Ma và những Lạt ma cao cấp khác. Những nghi
thức tiến hành được soạn thảo bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 8, Jampel Gyatso. Mặc dù sau khi một hệ thống như vậy đã được
đem ra sử dụng, phương thức này đã bỏ qua đối với các vị thứ Chín, thứ Mười Ba
và chính tôi, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14.
Ngay cả trong trường hợp của vị Đạt Lai Lạt Ma thứ
10, vị tái sinh chính xác đã được tìm thấy và trong thực tế thì phương thức này
không được sử dụng, nhưng để làm vui lòng nhà Mãn Thanh, người ta đã công bố là
người ta đã giám sát sự việc được xúc tiến qua phương pháp này.
Thực tế thì hệ thống Chiếc Lọ Vàng chỉ được sử dụng
trong những trường hợp của vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 11 và 12. Thế nhưng, vị Đạt
Lai Lạt Ma thứ 12 đã được nhận ra trước khi phương pháp đó được đem ra sử dụng.
Cho nên, chỉ có một lần duy nhất một vị Đạt Lai Lạt Ma được thừa nhận bằng
phương pháp này. Cũng thế, trong số những
hóa thân của Đức Ban Thiền Lạt Ma, không kể vị thứ Tám và thứ Chín, không có một
trường hợp nào sử dụng đến phương pháp này cả. Hệ thống này do nhà Mãn Thanh áp
đặt, nhưng người Tây Tạng chẳng hề có chút tin tưởng nào vào đó cả bởi vị nó chẳng
có bất kỳ một phẩm tính tâm linh nào. Tuy nhiên, giả sử phương pháp đó được sử
dụng một cách trung thực, có lẽ chúng ta có thể xem phương pháp đó tương tự như
cách thức bói toán bằng phương pháp dough-ball (zen tak).
Vào năm 1880, trong thời gian công việc thừa nhận Đạt
Lai Lạt Ma thứ 13 là tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma thứ 12, những giềng mối quan hệ
Tu Sĩ và Người Bảo Trợ giữa Tây Tạng và
nhà Mãn Thanh vẫn còn. Ngài đã được Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ 8 công nhận là tái
sanh chính xác, và bởi những tiên đoán của những nhà tiên tri Nechung và Samye
và bằng việc quan sát những hình ảnh hiện lên trên hồ Lhamoi Latso, do vậy mà
phương pháp Chiếc Lọ Vàng không được làm theo. Điều này có thể được nhận hiểu một
cách rõ ràng từ di chúc cuối cùng của năm Con Khỉ Nước (1933) của Đức Đạt Lai Lạt
Ma thứ 13, trong đó Ngài nói:
“Như tất cả quý vị đều biết, tôi đã được chọn lựa
không phải theo phương cách cải tiến là bốc thăm từ một cái lọ bằng vàng, mà sự
chọn lựa của tôi đã được báo trước và đoán trước. Phù hợp với những lời tiên
đoán và những sự tiên tri, tôi đã được thừa nhận là tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma
và đã đăng quang.”
Khi tôi được công nhận là hóa thân thứ 14 của của Đức
Đạt Lai Lạt Ma vào năm 1939, mối quan hệ Tu Sĩ và Người Bảo Trợ giữa Tây Tạng
và Tàu đã chấm dứt. Do vậy, không có một thắc mắc nào về bất kỳ một sự cần thiết
nào đó để xác định một vị tái sinh bằng việc sử dụng chiếc Lọ Vàng nữa. Ai cũng
biết rằng Hội Đồng Quản Trị Tây Tạng sau đó và Quốc Hội Tây Tạng đã đi theo
phương pháp thừa nhận tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma căn cứ vào những sự tiên đoán
của những Lạt-ma cao cấp, những nhà tiên tri và những ảnh hiện được nhìn thấy
trên hồ Lhamoi Latso; người Tàu không có can dự gì trong sự việc này ở bất cứ
phương diện nào. Thế nhưng, vài quan chức của Quốc Dân Đảng có liên quan đến vụ
việc này về sau đã tuyên truyền dối trá một cách xảo quyệt trên mặt báo chí rằng họ đã đồng ý bỏ việc sử dụng Chiếc Lọ Vàng và
rằng Wu Chung-tsin đã chủ trì lễ đăng quang của tôi, v.v.. Sự dối trá này bị
phơi bày bởi Ngabo Ngawang Jigme, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, người
mà Cộng hòa Nhân dân Tàu xem là một người tiến bộ nhất, tại kỳ họp thứ hai của
Quốc hội Nhân dân lần thứ Năm của Khu Tự trị Tây Tạng (ngày 31 tháng Bảy năm
1989). Điều này rõ ràng khi mà ở cuối bài diễn văn của ông ta, trong đó ông ta
giải thích cặn kẽ về những sự kiện và chứng từ được trình bày, ông ta yêu cầu rằng:
“Có gì cần thiết cho cái đảng Cộng Sản làm theo và
tiếp tục sự dối trá của Quốc Dân Đảng không?”
Chiến lược lừa bịp và những hy vọng hão huyền
Những năm gần đây, có những trường hợp những người
quản lý vô trách nhiệm những bất động sản của những vị Lạt-ma giàu có, những
người tự đam mê theo những phương pháp không đúng đắn để thừa nhận những hóa
thân, điều mà đã làm suy yếu Phật Pháp, cộng đồng tu viện và xã hội của chúng
ta. Hơn thế nữa, kể từ thời nhà Mãn Thanh các giới chức chính trị của người Tàu
đã không ngừng vay mượn những phương tiện dối trá sử dụng Phật Giáo, những đạo
sư và Tulku Phật Giáo làm công cụ để hoàn thành những mục đích chính trị của họ
khi họ tự động tham gia vào những công việc của Tây Tạng và Mông Cổ. Ngày nay,
những kẻ cai trị độc tài của Cộng hòa Nhân dân Tàu, là những người Cộng sản chối
bỏ tôn giáo, nhưng vẫn tự động nhúng tay vào những vấn đề tôn giáo, đã áp đặt một
cái gọi là chiến dịch cải tạo và tuyên bố cái gọi là Lệnh số Năm, liên quan đến
sự điều hành và thừa nhận những sự tái sinh, đã có hiệu lực từ ngày 01 tháng 09
năm 2007. Thật là kỳ quặc và xấu hổ. Việc thực thi những phương pháp không phù hợp
khác nhau để thừa nhận những vị tái sinh
nhằm xóa bỏ những truyền thống văn hóa độc nhất vô nhị của Tây Tạng
chúng ta đang gây ra những tổn hại mà khó có thể hồi phục được.
Hơn nữa, họ nói rằng họ đang trông đợi cái chết của
tôi và sẽ xác nhận một Đạt Lai Lạt Ma thứ 15 theo sự lựa chọn của họ. Từ những
luật lệ mới thời gian qua và những tuyên bố sau đó của chính họ thì rõ ràng rằng
họ đã có một chiến lược được chuẩn bị chu đáo để đánh lừa người dân Tây Tạng,
những tín hữu của truyền thống Phật Giáo Tây Tạng và cộng đồng thế giới. Do vậy,
vì tôi có bổn phận phải bảo vệ Phật Pháp và chúng sinh và phản bác lại những âm
mưu tai hại như vậy, tôi lập bản tuyên bố dưới đây.
Hóa thân tới đây của Đạt Lai Lạt Ma
Như tôi đã đề cập ở trước, tái sinh là một hiện tượng
mà nó xảy ra hoặc là qua sự chọn lựa trong tình nguyện của người liên quan hoặc
ít nhất là ở sức mạnh của nghiệp, công đức và những sự cầu nguyện của người đó.
Do vậy, người tái sinh là người có quyền hợp pháp duy nhất về vấn đề quyết định
người đó tái sinh ở đâu và như thế nào và sự tái sinh đó sẽ phải được thừa nhận
bằng cách nào. Đây là một thực tế mà không một ai khác có thể ép buộc người
trong cuộc hoặc điều khiển người đó được. Đặc biệt là nó không thích hợp với những
người Cộng sản Tàu, những kẻ công khai bác bỏ ngay cả cái ý tưởng về những kiếp
sống quá khứ và vị lai, chẳng đề cập gì đến khái niệm tái sinh các vị Tulku mà lại
xía vào hệ thống tái sinh và đặc biệt lại là những sự tái sinh của các Đạt Lai
Lạt Ma và các Ban Thiền Lạt Ma. Những sự can thiệp trắng trợn như thế mâu thuẫn
với tư tưởng chính trị của họ và làm lộ ra những cái tiêu chuẩn kép. Nếu tình
hình này vẫn diễn tiến trong tương lai, người dân Tây Tạng và những ai tu theo
truyền thống Phật Giáo Tây Tạng không thể nào nhìn nhận hoặc bằng lòng.
Đến lúc chừng 90 tuổi, tôi sẽ tham vấn các vị Lạt-ma
cao cấp của các truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, công chúng Tây Tạng, và những
người có liên quan khác là những ai tu theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, và
thẩm định lại xem liệu thiết chế Đạt Lai Lạt Ma có con nên tiếp tục nữa không.
Trên căn bản đó chúng tôi sẽ đưa ra một quyết định. Nếu người ta quyết định rằng
sự tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma nên tiếp tục và có một sự cần thiết cho việc Đạt
Lai Lạt Ma thứ 15 được công nhận, trách nhiệm công việc này sẽ trước hết là nằm
ở những viên chức có liên quan thuộc cơ quan ‘the Dalai Lama’s Gaden Phodrang
Trust.’ Những vị này cần phải tham vấn với những vị lãnh đạo khác nhau của những
truyền thống Phật Giáo Tây Tạng và những vị Thệ Nguyện Hộ Pháp khả tín là những
người đã liên kết không thể tách rời với dòng truyền thừa của các Đạt Lai Lạt
Ma. Những vị này cũng nên tìm lời khuyên và sự hướng dẫn từ những sinh linh có
liên quan và tiến hành những phương pháp tìm kiếm và thừa nhận theo truyền thống
đã làm. Tôi sẽ để lại những hướng dẫn bằng văn bản về vấn đề này. Hãy luôn nhớ
rằng, ngoài sự tái sinh được công nhận qua những phương pháp hợp lý ra sẽ không
có bất kỳ một sự công nhận hay chấp nhận nào dành cho một ứng viên được chọn lựa
vì những mục đích chính trị bởi bất kỳ một cá nhân nào đó, kể cả những người ở
trong nước Cộng hòa Nhân dân Tàu.
The Dalai Lama
Dharamsala
Ngày 24 tháng 9 năm 2011
Mọi sai trật trong việc chuyển sang Việt ngữ là lỗi của Konchog Da O Rinchen
Dịch từ nguồn: Dalai Lama
No comments:
Post a Comment